Tóm tắt Phần
I.
Trong
Phần I của bŕi “Nhěn Lại Hai Cuộc Chiến Ở
Việt Nam”
http://sachhiem.net/TCN/TCNls/TCNls16.php,
tôi đă chứng minh vŕi điểm sau đây:
1.
Việt Nam lŕ Cộng sản hay Quốc gia không phải lŕ
nguyęn nhân của cuộc chiến thứ nhất, mŕ nguyęn
nhân chỉ lŕ Pháp muốn trở lại để tái lập nền đô
hộ tręn đất nước Việt Nam vŕ Việt Nam kháng
chiến, thế thôi.
2.
Giải pháp Quốc Gia
của Pháp chỉ lŕ mánh khóe vận động những người
không Cộng sản thiếu hiểu biết chính trị, hoặc
có thể thân Pháp, không biết rằng chięu bŕi
chống Cộng của Pháp chỉ để che đậy mục đích
chính lŕ tái lập thuộc địa của Pháp ở Việt Nam.
: Giải pháp nŕy do Vatican chủ trương đưa ra.
Chính Đạo, Việt Nam Nięn Biểu 1939-1975 – Tập A:
1939-1946 (Houston, TX: Văn Hóa, 1996), tr. 295.
3.
Mỹ thực sự không quan tâm đến việc giúp Việt
Nam, tất cả những hŕnh động tự quyết của Mỹ ở
Việt Nam chỉ lŕ để phục vụ cho quyền lợi vŕ
đường hướng chính trị của Mỹ. Do đó, Mỹ đă quyết
định đơn phương giúp Pháp đủ mọi thứ vũ khí, từ
máy bay, xe thiết giáp, đại bác cho đến các loại
súng nhỏ, tổng số lęn tới 80% quân phí, trong
mưu đồ tái lập nền đô hộ của Pháp ở Việt Nam
bằng quân sự. Không ai có thể nói lŕ giúp Pháp
tái lập nền đô hộ ở Việt Nam lŕ giúp dân Việt
Nam.
4.
Trong triều đại Eisenhower, khi hai anh em ngoại
trưởng vŕ giám đốc CIA, John Foster Dulles vŕ
Allen Dulles, đều lŕ người Ca-tô giáo, cůng với
Hồng Y Spellman vŕ Giáo hoŕng Pius XII hoạch
định chính sách Mỹ, Quân lực Mỹ đă dự định thả
từ 1 tới 6 quả bom nguyęn tử nặng 31 ngŕn tấn
xuống lực lượng Việt Nam. Lẽ dĩ nhięn, nếu kế
hoạch nŕy thực hiện thě những nạn nhân của bom
nguyęn tử ở Điện Bięn Phủ không chỉ lŕ Cộng sản
mŕ cňn có (1/3) lính Quốc Gia vŕ (2/3) lính Pháp
trong đó. Vě vậy, Pháp vŕ Anh đều phản đối kế
hoạch nŕy.
5.
Mỹ đă đánh giá sai lầm Hồ Chí Minh vě Mỹ cho
rằng Hồ Chí Minh lŕ tay sai theo lệnh của Nga Sô
trong cuộc chiến chống Pháp, trong khi Mỹ không
có một bằng chứng nŕo chứng tỏ như vậy nhưng cứ
cho lŕ như vậy. Mặt khác, chúng ta biết rằng ông
Hồ đă viết 8 lá thư cho Tổng Thống vŕ Ngoại
Trưởng Mỹ mŕ nội dung chỉ lŕ yęu cầu Mỹ ủng
hộ tinh thần cho nền độc lập mới thu hồi của
Việt Nam, nhưng Mỹ đă không trả lời vŕ có
những hŕnh động đẩy ông Hồ về phía Cộng sản khi
ông Hồ không có sự chọn lựa nŕo khác để thực
hiện cuộc chiến đấu giŕnh lại nền độc lập vŕ
thống nhất quốc gia.
Về chuyện nŕy,
giáo sư Loren Baritz viết trong cuốn “Backfire:
Vietnam – The Myths that made us fight, the
illusions that helped us lose, the legacy that
haunts us today”, trang 343: “Có phải lŕ
vě tiếc giá tiền của một con tem (để trả lời
Hồ Chí Minh) Mỹ đă bắt buộc Hồ Chí Minh phải
těm sự giúp đỡ ở Moscow” (In saving the cost
of a postage stamp did America force Ho Chi Minh
to find help in Moscow?) vŕ giáo sư hỏi: “Có
đáng được gě không, với 50.000 lính Mỹ chết?”
(Was it worth anything, including 50,000 dead
American soldiers?)
6.
Hiệp định Geneva không hề chia cắt đất nước
lŕm hai miền rięng biệt Bắc vŕ Nam. Vĩ
tuyến 17 chỉ lŕ một phân định tạm thời để
hai bęn, Pháp vŕ Việt Minh, rút quân vŕ
người dân được tự do chọn lựa nơi měnh muốn sinh
sống, chờ ngŕy Tổng Tuyển Cử vŕo năm 1956 để
thống nhất đất nước bằng giải pháp chính trị. Có
những luận cứ cho rằng Hiệp Định Geneva “có ý
định” chia cắt đất nước vĩnh viễn, hoặc Trung
Cộng vŕ Nga Sô đều không muốn Việt Nam thống
nhất. Đây lŕ những luận cứ ngớ ngẩn vě Nước
Việt Nam của người Việt Nam, vŕ quyền quyết định
về đất nước lŕ của Việt Nam, không phải quyền
của bất cứ thế lực nŕo khác. Một luận điệu
khác lŕ chính quyền Ngô Đěnh Diệm phản đối việc
chia cắt đất nước, nhưng chính Ngô Đěnh Diệm lại
không thi hŕnh điều khoản về việc tổ chức Tổng
Tuyển Cử ghi trong Hiệp Định Geneve 1954 để
thống nhất đất nước.
Vậy thě tại sao
lại xẩy ra cuộc chiến bất đắc dĩ kéo dŕi 20 năm
để chống Mỹ. Chúng ta biết, về Hiệp Định Geneva,
Mỹ tuyęn bố:
“Mỹ sẽ tự kiềm
chế không đe dọa hoặc důng vő lực để phá những
thỏa hiệp trong Hiệp Định Geneva…
Trong trường
hợp những quốc gia nay bị chia đôi ngoŕi ý muốn,
chúng tôi sẽ tiếp tục těm kiếm giải pháp thống
nhất qua bầu cử tự do, giám sát bởi Lięn Hiệp
Quốc để bảo đảm lŕ bầu cử được thi hŕnh nghięm
chỉnh”.
(1)
Mỹ tuyęn bố như
vậy, nhưng rồi Mỹ đă lŕm gě?
Trong cuốn The
United States In Vietnam: An Analysis In Depth
Of The History Of America’s Involvement In
Vietnam, hai Giáo sư đại học Cornell, George
McTurnan Kahin vŕ John W. Lewis, viết, trang 59:
“Tuy Mỹ nói
rằng “sẽ tự kiềm chế, không đe dọa hay důng vő
lực để phá những điều khoản Thỏa Hiệp” nhưng
điều hiển nhięn chúng ta thấy ngay sau đó lŕ Mỹ
đă sửa soạn důng mọi phương cách khác để ủng hộ
chế độ Saigon
[do Mỹ dựng lęn]
trong việc không tôn trọng những điều khoản
trong Thỏa Hiệp” (2)
Vậy thě vě lý
do gě mŕ Mỹ lại nuốt lời vŕ trắng trợn can
thiệp vŕo Việt Nam?
Có vŕi lý do chính
yếu, tuy vô giá trị, chúng ta có thể nói không
sợ sai:
- Thứ nhất, Mỹ đă
důng “cường quyền thắng công lý”. Từ xưa
tới nay, Mỹ, vě lŕ một cường quốc bậc nhất tręn
thế giới về quân sự vŕ kinh tế, nhất lŕ sau Đệ
Nhị Thế Chiến, nęn Mỹ muốn lŕm gě thě lŕm, bất
chấp dư luận, bất chấp công lý, vŕ bất chấp lięm
sỉ, đạo đức, nói một đŕng, lŕm một nẻo, nhưng
bao giờ cũng nấp sau chięu bŕi bảo vệ tự do, dân
chủ, nhân quyền.
- Thứ nhě, Mỹ theo
đuổi chính sách thực dân mới để phục vụ nền kinh
tế Mỹ. Chính sách thực dân mới của Mỹ lŕ chính
sách đa phương (multilateral), ép mọi nước phải
mở cửa (open door) để cho Mỹ vŕ các cường quốc
tự do vŕo khai thác tŕi nguyęn, tự do giao
thương, tięu thụ hŕng hóa vŕ sử dụng nhân công
rẻ, ở các nơi đây nền kinh tế của Mỹ chắc chắn
chiếm ưu thế..
- Vŕ thứ ba, huyền
thoại về nước Mỹ lŕ “một thị trấn tręn một
ngọn đồi” nhěn xuống tất cả các quốc gia
khác, hay lŕ một “cái đầu tầu” kéo cả thế giới
theo sau, đă ăn sâu vŕo trong tâm khảm đa số
người Mỹ theo Ki Tô Giáo, Ca-tô cũng như Tin
lŕnh, cho nęn Mỹ tự cho lŕ dân chủ, đạo đức
nhất, nęn phải truyền bá những thứ mŕ Mỹ tự tin,
dů không đúng sự thật, tręn thế giới.
Lẽ dĩ nhięn tôi
không có khả năng viết về tất cả những gě lięn
quan đến một cuộc chiến kéo dŕi trong 20 năm. Do
đó tôi xin tự giới hạn trong một số chủ đề, xin
quý vị đọc giả thông cảm. Phần tŕi liệu tham
khảo chọn lọc cuối bŕi có thể giúp cho quý đọc
giả nŕo muốn đŕo sâu vŕo những vấn đề xung quanh
cuộc chiến mŕ měnh muốn biết.
Thực Chất Cuộc
Can Thiệp Của Mỹ Vŕo Việt Nam.
Mỹ không có bất cứ
một lý do chính đáng nŕo để can thiệp vŕo Việt
Nam, một nước nhỏ, nghčo, chưa phát triển vŕ
không có bất cứ một khả năng nŕo có thể gây hại
cho nước Mỹ. Do đó, việc Mỹ can thiệp vŕo Việt
Nam lŕ bất chấp dư luận, bất chấp cả công pháp
quốc tế, nghĩa lŕ důng “cường quyền thắng công
lý” của một cường quốc, tự cho Mỹ có quyền can
thiệp vŕo bất cứ đâu mŕ Mỹ muốn, bất kể lý lẽ.
Đó lŕ thái độ của những kẻ côn đồ chuyęn đi ăn
hiếp, bắt nạt những kẻ yếu. Sau đây lŕ vŕi tŕi
liệu của chính người Mỹ nói về cuộc can thiệp
của Mỹ vŕo Việt Nam.
Mỹ vŕ những chính
quyền tay sai đă đưa ra nhiều lý do để biện minh
cho vai trň của Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam.
Nhưng giáo sư Mortimer Cohen đă có một
nhận định rất chính xác về những lý do biện minh
cho sự can thiệp vŕo Việt Nam của Mỹ trong cuốn
From Prologue To Epilogue In Vietnam,
Publisher Retriever Bookshop, N.Y., 1979, trang
208:
Trong 21 năm bị
lôi cuốn vŕo Đông Dương, Chính Phủ Mỹ đă đưa ra
những “lý do” về những hŕnh động của měnh.
Những lý do nŕy vô giá trị.
Lý do duy nhất mŕ Mỹ vŕo Đông Dương lŕ để ngăn
chận vůng nŕy khỏi rơi vŕo tay Cộng Sản bằng một
cuộc bầu cử, một cuộc cách mạng nội bộ...
[nghĩa lŕ důng
cường quyền xía vŕo chuyện nội bộ của Việt Nam]
Vŕ đó
cũng đủ để gọi lŕ lý do.
Thęm nhiều lý
do. Vŕ thęm nhiều lý do nữa. Chúng mọc lęn như
măng tháng 5. Trước khi chiến tranh Đông Dương
chấm dứt, những lý do có thể chứa đầy một cuốn
sách. Không lý do nŕo hợp lý.
Một trong những lý
do Mỹ viện ra để biện minh cho chuyện Mỹ can
thiệp vŕo Việt Nam lŕ Mỹ đến Việt Nam vě những
mục đích cao thượng, chính đáng, để bảo vệ tự do
dân chủ cho miền Nam Việt Nam, để ngăn chặn Cộng
sản vô thần bŕnh trướng. Nhưng thực ra có phải
như vậy không?
Miền
Nam nŕo yęu cầu Mỹ mang quân vŕo Việt Nam để bảo
vệ tự do dân chủ cho miền Nam.?
Như sẽ được chứng minh qua các tŕi liệu sau đây,
Mỹ đă dựng lęn miền Nam rồi tự tiện xâm lăng
miền Nam, nói lŕ để bảo vệ tự do dân chủ cho
miền Nam, nhưng thực chất chỉ để chứng tỏ Mỹ,
không như Pháp, có khả năng đánh bại du kích
chiến, đồng thời duy trě uy tín, ảnh hưởng vŕ
quyền lợi của Mỹ ở Á Châu. Ngoŕi ra Mỹ cũng cňn
những mục đích tôn giáo vŕ kinh tế mŕ chúng ta
sẽ nói tới sau.
Trong cuốn The
Vietnam War and American Culture, Columbia
University Press, 1991, của hai giáo sư John
Carlos Rowe & Rick Berg, chúng ta có thể đọc
đoạn sau đây, trang 72:
Bảo vệ sự “tự
do” của người dân Việt Nam ư? Trong những tŕi
liệu nội bộ
(của Mỹ) những
sự thực ác nghiệt về những mục đích của Mỹ về
cuộc chiến tranh (ở Việt Nam) đă nói ra
rő rŕng – không gě rő hơn lŕ trong một bản ghi
của Thứ Trưởng Quốc Phňng John McNaughton, viết
thay cho Bộ Trưởng McNamara (với một bản sao
chỉ để cho George Bundy đọc) về những mục
đích chiến tranh của Mỹ: 70% để duy trě danh dự
quốc gia của chúng ta, 20% để cho Nam Việt Nam
khỏi bị Trung Quốc chiếm đóng, vŕ 10% để cho
người dân Việt Nam được hưởng một lối sống tốt
hơn vŕ tự do hơn. (4)
Chúng ta có thể
thấy một đoạn tương tự trong cuốn Cuộc Chiến
Bất Tận: Cuộc Đấu Thanh Của Việt Nam Để Giŕnh
Độc Lập (The Endless War: Vietnam.s Struggle
For Independence, Columbia University Press, New
York, 1989) Giáo Sư James P. Harisson
viết, trang 4:
“Ngŕy 24 tháng
3, 1965, Thứ Trưởng Quốc Phňng John T.
McNaughton tuyęn bố lŕ trong khi thực ra chỉ có
10% nỗ lực của Mỹ để giúp người dân Nam Việt
Nam, 20% có mục đích giữ Nam VN
(vŕ những lănh thổ
lân cận) khỏi rơi vŕo tay Trung Quốc, vŕ phần
lớn nhất, 70%, lŕ để “tránh một cuộc thất bại
nhục nhă của Mỹ.” (5)
Mỹ can thiệp vŕo
Việt Nam nhưng không biết gě về lịch sử Việt
Nam. Lŕm sao mŕ Việt Nam có thể rơi vŕo tay
Trung Quốc được? Xét đến những hŕnh động của
Mỹ tại Việt Nam, cách đối xử của Mỹ đối với Việt
Nam, những chiến dịch vô nhân đạo mŕ Mỹ tung ra
ở Việt Nam, số thường dân thương vong ở Việt Nam
v..v.. mŕ ngŕy nay chúng ta có rất nhiều tŕi
liệu về tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam,
tŕi liệu của chính Mỹ, thě 10% để giúp dân
Việt Nam không thể để tręn cán cân đối với 90%
có tính cách tŕn phá, hủy diệt Việt Nam, vŕ
tuyệt đối không phải để bảo vệ tự do dân chủ hay
tôn trọng nhân quyền của người dân Việt Nam.
Chúng ta hăy đọc thęm vŕi tŕi liệu.
Cuốn Việt Nam:
Sự Khủng Khoảng của Lương Tri (Vietnam:
Crisis of Conscience, Association Press, N.Y.,
1967) viết bởi ba giới chức tôn giáo: Mục sư
Tin Lŕnh Robert McAfee Brown, Giáo sư Tôn
Giáo Học, đại học Stanford; Linh mục Michael
Novak, Giáo sư về Nhân Bản Học, đại học
Stanford; vŕ Tu sĩ Do Thái Abraham J.
Heschel, giáo sư về đạo đức vŕ huyền nhiệm
Do Thái tại trường Thần Học Do Thái ở Mỹ, mở đầu
bằng câu:
Những trang
sách sau đây xuất sinh từ sự cůng quan tâm của
chúng tôi rằng: quốc gia của chúng ta
(Mỹ) bị lôi
cuốn vŕo cuộc xung đột ở Việt Nam mŕ chúng tôi
thấy không thể nŕo biện minh được trong ánh sáng
thông điệp của các nhŕ tięn tri hay Phúc Âm của
Gię-su ở Nazareth. (6)
Trong cuốn sách
nŕy, Mục sư Tin Lŕnh Robert McAffee Brown
viết, p. 67:
Ngay cả quyền
hiện diện của chúng ta ở đó
(Việt Nam) cũng
bị chất vấn, trong ánh sáng
của luật quốc tế, bởi những
người có địa vị cao trong chính phủ của chúng
ta, trong đó có các Thượng Nghị Sĩ Morse,
Church, Gore, vŕ Gruening. Nhưng ngay cả khi có
quyền, bản chất những gě chúng ta đang lŕm ở
Việt Nam cũng phải lęn án. (7)
Mặt khác, trong
thời điểm đó, hầu như toŕn thể Đông Âu đều theo
Cộng Sản, Cuba ở ngay sát nách Mỹ lŕ Cộng Sản,
vŕ hai Cộng Sản lớn nhất lŕ Nga vŕ Tŕu, tại
sao Mỹ không chống Cộng ở những nơi đó mŕ
lại đi chống ở một nước nghčo, nhỏ, xa xôi như
Việt Nam, vừa mới giŕnh được độc lập sau một
cuộc chiến đấu gian khổ dŕi 9 năm, nhân dân mệt
mỏi, tŕi nguyęn kiệt quệ, vŕ nhất lŕ không có
khả năng gây bất cứ sự nguy hại nŕo cho Mỹ?
Mục Sư Tin Lŕnh
Robert McAfee Brown viết trong cuốn Việt
Nam: Sự Khủng Khoảng của Lương Tri
(Vietnam: Crisis of Conscience, Association
Press, N.Y., 1967), trang 79:
Thật lŕ khôi
hŕi, ngay khi mŕ chúng ta nói rằng chúng ta phải
“chặn đứng Cộng Sản” ở Việt Nam, thě ở những
nơi khác chúng ta lại sống chung với Cộng Sản,
soạn thảo những hiệp ước với Nga Sô, mở rộng
giao thương với Đông Âu, ủng hộ Tito ở Nam Tư. Ở
những nơi khác, chúng ta rő rŕng quyết định lŕ
sống chung hňa běnh với Cộng Sản, vŕ khuyến
khích những xă hội Cộng Sản độc lập, không cần
đến sự lięn kết với nhau trong khối Cộng sản.(8)
Walter J.
Rockler,
nguyęn công tố vięn tňa án xử tội phạm chiến
tranh Nuremberg, đă viết như sau về quan niệm
nhân quyền của Mỹ:
"Cái mŕ chúng
ta gọi lŕ quan tâm đến nhân quyền thật lŕ lố
bịch. Chúng ta đă thả xuống Việt Nam một số
lượng bom gấp đôi số lượng bom mŕ các quốc gia
lięn hệ đến cuộc Đệ Nhị Thế Chiến thả lęn đầu
nhau. Trong cuộc chiến nŕy, chúng ta đă giết
hŕng trăm ngŕn thường dân. Ngay gần đây, chúng
ta bảo trợ, huấn luyện vŕ ủng hộ những đoŕn quân
địa phương của Guatamala, El Salvadore, vŕ
Nicaragua Contras ở Trung Mỹ, trong sự tŕn sát
ít nhất lŕ 200 ngŕn người..."
(9)
Vŕ Robert
Scheer cũng viết như sau tręn tờ Times:
"Chẳng phải lŕ
chúng ta có một lịch sử "diệt chủng" hay sao,
mới đầu lŕ thổ dân Mỹ, vŕ sau lŕ ở Việt Nam, khi
quân đội Hoa Kỳ lůa những dân lŕng trung thŕnh,
hầu hết lŕ Công Giáo, vŕo sống an toŕn trong
những Ấp Chiến Lược, trong khi biến những vůng
Phật Giáo ở thôn quę Nam Việt Nam thŕnh những
vůng tự do thả bom một cách toŕn diện?"
(10)
Chúng ta hăy đọc
thęm vŕi nhận định của tướng lănh, chính khách
Mỹ:
Tướng David
Sharp,
Nguyęn Chỉ Huy Trưởng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ,
phát biểu, năm 1966:
“Tôi tin rằng
nếu chúng ta đừng xía những bŕn tay dơ bẩn,
đẫm máu, nắm đầy đô-la, vŕo việc của những quốc
gia trong Thế Giới Thứ Ba đầy những người
thất vọng, bị khai thác, thě những quốc gia
nŕy sẽ těm ra giải pháp cho chính họ. Vŕ nếu
bất hạnh lŕ cuộc cách mạng của những quốc gia
nŕy phải důng đến bạo lực lŕ vě những người có
của từ chối không chịu chia sẻ với những người
không có bằng phương pháp hňa běnh nŕo, thě
những gě họ chiếm được sẽ lŕ của chính họ, không
phải lŕ của kiểu Mỹ mŕ họ không muốn vŕ nhất lŕ
không muốn bị nhét xuống cổ họng bởi người Mỹ.”
(11)
Thượng Nghị Sĩ
Wayne Morse,
Đảng dân Chủ - Oregon, nhận định, năm 1967:
“Theo sự phán
xét của tôi, chúng ta sẽ trở thŕnh kẻ có tội vě
lŕ sự đe dọa lớn nhất cho nền hňa běnh thế giới.
Đó lŕ một sự thực xấu xa, vŕ người Mỹ chúng ta
không thích đối diện với nó. Tôi thật không muốn
nghĩ rằng một trang sử của Mỹ sẽ được viết ra
lięn quan đến chính sách vô pháp của chúng ta
ở Đông Nam Á.”
(12)
Từ những tŕi liệu
điển hěnh ở tręn của chính những người Mỹ có
chức vụ cao cấp trong tôn giáo, trong chính
quyền, vŕ các bậc trí thức khoa bảng trong các
đại học Mỹ, chúng ta thấy Mỹ không có bất cứ một
lý do nŕo chính đáng để có thể can thiệp vŕo
Việt Nam. Nếu không có lý do nŕo chính đáng thě
bản chất cuộc can thiệp của Mỹ vŕo Việt Nam lŕ
một cuộc xâm lăng để cho những mục đích chính
trị, kinh tế vŕ tôn giáo của Mỹ. Vŕ nếu đó lŕ
một cuộc xâm lăng thě chuyện chống xâm lăng lŕ
chuyện đă thŕnh nếp trong lịch sử Việt Nam với
bao cuộc chiến thắng quân ngoại xâm. Do đó,
không có ngŕy 30 tháng 4, 1975 thě cũng sẽ có
ngŕy 30 tháng 4 khác.
Thật vậy, chiến
tranh Việt Nam chấm dứt nhưng 27 năm sau
Daniel Ellsberg cňn viết trong cuốn
Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon
Papers, Viking, 2002, p.255:
“Không lŕm
gě có chiến tranh Đông Dương thứ nhất vŕ thứ
nhě, chỉ có một cuộc xung đột nối tiếp trong
một phần tư thế kỷ..
Důng ngôn
từ thực tế, đứng về một phía (Mỹ), ngay từ
đầu nó đă lŕ một cuộc chiến của Mỹ: mới đầu
lŕ Pháp-Mỹ, sau đến toŕn lŕ Mỹ. Trong cả hai
trường hợp, nó lŕ một cuộc đấu tranh của
người Việt Nam – không phải lŕ tất cả người
Việt Nam nhưng cũng đủ để duy trě cuộc đấu
tranh – chống chính sách của Mỹ vŕ những
kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia, hỏa lực,
vŕ cuối cůng, quân đội vŕ phi công, của Mỹ.
Cuộc
chiến đó không có gě lŕ “nội chiến”,
sau 1956 hay 1960, như nó đă không từng lŕ
nội chiến trong cuộc tái chiếm thuộc địa của
Pháp được Mỹ ủng hộ. Một cuộc chiến mŕ trong
đó một phía hoŕn toŕn được trang bị vŕ trả
lương bởi một quyền lực ngoại quốc – một
quyền lực nắm quyền quyết định về bản chất
của chế độ địa phương vě những quyền lợi của
měnh – thě không phải lŕ một cuộc nội chiến.
Bảo rằng
chúng ta “xía vŕo” cái gọi lŕ “đích thực lŕ
một cuộc nội chiến”, như hầu hết các tác giả
Mỹ, vŕ ngay cả những người có khuynh hướng
tự do chỉ trích cuộc chiến cho rằng như vậy
cho đến ngŕy nay, đơn giản chỉ lŕ che dấu
một sự thực đau lňng hơn, vŕ cũng chỉ lŕ một
huyền thoại như lŕ luận điệu chính thức về
một “cuộc xâm lăng từ miền Bắc”.
Theo
tinh thần Hiến Chương Lięn Hiệp Quốc vŕ theo
những lý tưởng mŕ chúng ta công khai thừa
nhận, đó lŕ một cuộc ngoại xâm, sự xâm lăng
của Mỹ.”
(13)
Trong cuốn
Chiến Tranh Việt Nam Vŕ Văn Hóa Mỹ (The
Vietnam War and American Culture, Columbia
University Press, New York, 1991), hai Giáo sư
đại học, John Carlos Rowe vŕ Rick Berg,
viết, trang 28-29:
Cho tới năm
1982 – sau nhiều năm tuyęn truyền lięn tục
mŕ hầu như không có tiếng nói chống đối nŕo
được phép đến với đại chúng – tręn 70% dân
chúng vẫn coi cuộc chiến (ở Việt Nam)
“căn bản lŕ sai lầm vŕ phi đạo đức”, chứ
không chỉ lŕ “một lỗi lầm.”
Tưởng cũng
nęn nhớ lại vŕi sự kiện. Mỹ đă dính sâu vŕo
nỗ lực của Pháp để tái chiếm thuộc địa cũ
của họ, biết rằng kẻ thů lŕ phong trŕo quốc
gia của Việt Nam. Số tử vong vŕo khoảng nửa
triệu. Khi Pháp rút lui, Mỹ lập tức hiến
thân vŕo việc phá hoại Hiệp Định Genčve năm
1954, dựng lęn ở miền Nam một chế độ khủng
bố, cho đến năm 1961, giết có lẽ khoảng
70000 “Việt Cộng”, gây nęn phong trŕo kháng
chiến mŕ từ 1959 được sự ủng hộ của nửa miền
Bắc tạm thời chia đôi bởi Hiệp Định Genčve
mŕ Mỹ phá ngầm. Trong những năm 1961-62,
Tổng thống Kennedy phát động cuộc tấn công
thẳng vŕo vůng quę Nam Việt Nam với những
cuộc thả bom trải rộng, thuốc khai quang
trong một chương trěnh được thiết kế để lůa
hŕng triệu người dân vŕo những trại (ấp
chiến lược?) nơi đây họ được bảo vệ bởi
những lính gác, giây thép gai, khỏi quân du
kích mŕ Mỹ thừa nhận rằng được dân ủng hộ.
Mỹ khẳng định lŕ đă được mời đến, nhưng như
tờ London Economist đă nhận định chính xác,
“một kẻ xâm lăng lŕ một kẻ xâm lăng trừ phi
được mời bởi một chính phủ hợp pháp.”
Mỹ chưa bao giờ coi những tay sai
měnh dựng lęn lŕ có quyền hợp pháp như vậy,
vŕ thật ra Mỹ thường thay đổi những chính
phủ nŕy khi họ không có đủ thích thú trước
sự tấn công của Mỹ hay těm kiếm một sự dŕn
xếp trung lập được mọi phía ủng hộ nhưng bị
coi lŕ nguy hiểm cho những kẻ xâm lăng, vě
như vậy lŕ phá ngầm căn bản cuộc chiến của
Mỹ chống Nam Việt Nam. Nói ngắn gọn, Mỹ
xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đă tiến tới
việc lŕm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội
ác khủng khiếp chống nhân lọại tręn khắp
Đông Dương.
(14)
Noam Chomsky
viết trong cuốn The Chomsky Reader,
Edited by James Peck, năm 1984, dưới đầu đề
Cuộc Xâm Lược Nam Việt Nam [The Invasion of
South Vietnam]:
Cuộc xâm
lược của Mỹ vŕo Nam Việt Nam
lŕ tiếp theo sự ủng hộ của chúng ta trong
toan tính của Pháp tái chinh phục thuộc địa
cũ, sự phá “quá trěnh hňa běnh” năm 1954
[Hiệp định Geneva]
của chúng ta,
vŕ một cuộc chiến tranh khủng bố chống dân
chúng Nam Việt Nam.
Có một sự
dŕn xếp chính trị vŕo năm 1954, Hiệp định
Geneva… Chúng ta tiến ngay vŕo việc phá ngầm
Hiệp định, đặt ở Nam Việt Nam một chế độ
hung bạo, khủng bố, lẽ dĩ nhięn lŕ bác
bỏ (với sự ủng hộ của chúng ta) cuộc tổng
tuyển cử đă được dự phóng. Rồi chế độ đó trở
thŕnh một cuộc tấn công khủng bố chống dân
chúng ở Nam Việt Nam, đặc biệt đối với lực
lượng kháng chiến chống Pháp mŕ chúng ta gọi
lŕ Việt Cộng. Chế độ đó đă giết có thể vŕo
khoảng 80000
(SH -tám chục
ngŕn người)
khi mŕ John F. Kennedy lęn lŕm Tổng Thống
năm 1961.
Trong những
năm 1961 vŕ 1962 Kennedy khởi sự một cuộc
chiến chống Nam Việt Nam. Có nghĩa lŕ, trong
1961 vŕ 1962 , không lực Mỹ bắt đầu bỏ bom
vŕ trải thuốc khai quang rộng răi ở Nam Việt
Nam, nhắm trước hết vŕo những vůng nông thôn
mŕ 80% dân chúng sống trong đó. Đây lŕ một
phần của chương trěnh lůa nhiều triệu người
dân vŕo trong những trại tập trung mŕ chúng
ta gọi lŕ “ấp chiến lược” nơi đó họ bị
bao vây bởi các lính canh gác vŕ giây
thép gai, được “bảo vệ”, như chúng ta nói
vậy, trước quân du kích mŕ chúng ta thừa
nhận rằng người dân tự nguyện ủng hộ. Đây lŕ
điều mŕ chúng ta gọi lŕ “xâm lược” hay “tấn
công bằng vũ khí” khi một nước nŕo đó lŕm
như vậy. Chúng ta gọi đó lŕ “tự vệ” khi
chúng ta lŕm như vậy.
(15)
Vŕ trong cuốn
The Vietnam Wars: 1945-1990, Marilyn B.
Young cũng để cả một chương, chương 8, để viết
về “Cuộc Xâm Lăng của Mỹ vŕo Nam Việt Nam”
(The American Invasion of South Vietnam).
Từ những tŕi liệu
tręn của chính những tác giả Mỹ gồm đủ mọi thŕnh
phần trí thức trong xă hội Mỹ, thật rő rŕng lŕ
Mỹ đă důng “cường quyền thắng công lý” để xâm
lăng Việt Nam trong khi Việt Nam không có bất cứ
một khả năng nŕo để có những hŕnh động xâm hại
đến nước Mỹ. Do đó cuộc chiến 20 năm, 1955-1975
đích thực lŕ một cuộc chống Mỹ xâm lăng. Sau
đây, chúng ta hăy těm hiểu trěnh tự xâm lăng của
Mỹ vŕo Việt Nam như thế nŕo.
Nghięn cứu kỹ vấn
đề, chúng ta thấy cuộc xâm lăng của Mỹ vŕo Nam
Việt Nam có nguồn gốc từ chính nền văn hóa của
Mỹ. Sự can thiệp của Mỹ vŕo Việt Nam lŕ sự hội
tụ của 3 yếu tố: chính trị, thần học Ki-tô Giáo,
vŕ kinh tế. Những yếu tố nŕy đan quyện với nhau
tạo thŕnh chính sách vŕ hŕnh động của Mỹ, không
rięng gě ở Việt Nam mŕ cňn ở tręn khắp thế giới.
A. Yếu Tố Chính
Trị.
Dựng lęn
chế độ Ngô Đěnh Diệm ở miền Nam, không thi hŕnh
khoản Tổng Tuyển Cử qui định vŕo năm 1956 trong
Hiệp Định Geneva vŕ xâm hại Bắc Việt:
Trước hết, vŕo năm
1954, sau khi cố gắng giúp Pháp với 80% quân phí
để tái lập nền đô hộ ở Việt Nam bị thất bại,
ngay từ khi Hiệp Định Geneva chưa được ký kết,
Mỹ đă có kế hoạch can thiệp vŕo Việt Nam: 1) Đưa
Ngô Đěnh Diệm về lŕm tay sai, dựng lęn một chính
quyền miền Nam để chống Cộng cho Mỹ, vŕ 2) phá
ngầm Bắc Việt, gửi đại tá CIA Edward Geary
Lansdale ra ngoŕi Bắc để phá hoại, tuyęn truyền,
vŕ khai thác sự mę tín của giáo dân Ca-tô để kéo
họ vŕo Nam lŕm hậu thuẫn cho Ngô Đěnh Diệm. Cả
hai kế hoạch nŕy đều thất bại như chúng ta sẽ
thấy trong một phần sau.
Nếu Pháp gọi Bảo
Đại từ Hồng Kông về để lập nęn một chính phủ độc
lập tręn hěnh thức vŕ mang tęn “Quốc Gia Việt
Nam” (Marilyn B. Young, The Vietnam Wars:
1945-1990, p. 42), důng người Việt đánh
người Việt để che đậy nỗ lực tái lập thuộc
địa của Pháp nấp sau chięu bŕi thánh chiến
chống Cộng (Boettcher, The Valor and the
Sorrow, p. 80), thě Mỹ cũng đưa Ngô Đěnh
Diệm về, đẻ ra một đứa con ở miền Nam mang cůng
tęn “Quốc Gia Việt Nam” để che đậy chính sách
“cường quyền thắng công lý” vŕ “thực dân mới”
của Mỹ.
Mỹ chọn Diệm vě Mỹ
biết Diệm lŕ một tín đồ Ca-tô cuồng tín, qua sự
khảo xát của Hồng Y Spellman, Ngoại Trưởng John
Foster Dulles vŕ một số nhân vật Ca-tô trong
chính quyền Mỹ, hăng say chống Cộng cho Chúa,
thực ra lŕ cho Giáo hoŕng Pius XII, vě năm
1949, Giáo hoŕng đă ra sắc lệnh tuyệt thông mọi
tín đồ hợp tác với Cộng sản, bỏ phiếu bầu
cho người Cộng sản, đọc sách báo của Cộng sản
v…v.. Ngŕy nay chúng ta biết rằng vạ tuyệt thông
chẳng qua chỉ lŕ cái trň hů dọa trẻ con vô tác
dụng, nhưng đối với các tín đồ cuồng tín Ca-tô
mę mẩn về một cái bánh vẽ tręn trời thě đó lŕ
một lưỡi gươm treo tręn đầu họ. Mỹ cũng biết
thŕnh tích của Ca-tô Giáo Việt Nam trong cuộc
xâm lăng của Pháp cho nęn có thể tin cậy người
Ca-tô trong cuộc thánh chiến chống Cộng của Mỹ.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, quân đội Pháp
chỉ có thể cảm thấy an toŕn trong các khu vực
Ca-tô. Vŕ sau nŕy cũng vậy, Mỹ chỉ có thể tin
tưởng ở người Ca-tô, những người vě một đức tin
mů quáng tôn giáo, sẵn sŕng lŕm tay sai cho
những ngoại nhân.
I. Lá bŕi Ngô Đěnh
Diệm.
Trong bŕi “Vŕi
Nét Về Cụ Diệm” tręn
http://sachhiem.net/TCN/TCNls/TCNls06.php.
tôi đă viết chi tiết về việc Mỹ důng lá bŕi Ngô
Đěnh Diệm vŕ đă thất bại ra sao. Chúng ta biết
rằng Ông Ngô Đěnh Diệm không phải lŕ một khuôn
mặt chính trị có tầm vóc ở Việt Nam, được nhiều
người biết đến trước khi được đưa về Việt Nam
lŕm Thủ Tướng vŕo tháng 6, 1954. Thŕnh tích của
ông trong thời Pháp thuộc không lấy gě lŕm sáng
sủa, chưa kể ông thuộc dňng họ ba đời lŕm Việt
Gian. Chúng ta cũng biết, từ năm 1950, trong khi
toŕn dân kháng chiến chống Pháp thě ông ta đă
rời quę hương đất tổ để sống trong các Trường
Dňng Ca-tô Giáo ở Mỹ vŕ ở Bỉ.
Một câu hỏi
được đặt ra:
với một thŕnh tích “yęu nước” vŕ chính trị không
có gě, với một khả năng rất giới hạn, tŕi vŕ đức
đều không có, khoan kể lŕ ông Diệm thuộc gia
đěnh ba đời phục vụ cho thực dân Pháp, vậy tại
sao ông Diệm lại được chọn để lŕm Thủ Tướng ở
miền Nam?
Vatican đă góp
phần lớn trong kế hoạch nŕy qua những hoạt động
của Hồng Y Francis Spellman vŕ hai anh em ngoại
trưởng người Ca-tô John Foster Dulles vŕ Allen
Duless cůng một số Linh mục Mỹ vŕ nghị sĩ Ca-tô
trong chính quyền Mỹ như Kennedy, Mansfield
v…v… Cái đạo ác ôn buôn thần bán thánh nŕy đă
gây tác hại cho đất nước Việt Nam không ít, từ
đầu khi các thừa sai dẫn đường cho Pháp đánh
chiếm Việt Nam với sự hỗ trợ rất đắc lực của
giáo dân Việt Nam, cho đến tận ngŕy nay khi giáo
hội Ca-tô giáo Việt Nam luôn luôn khích động
giáo dân lŕm loạn, coi thường luật pháp quốc gia.
Có lẽ những chi
tiết trong cuốn “The American Pope: The Life
and Times of Francis Cardinal Spellman”, A
Dell Book, NY, 1985, của John Cooney, tạm
gọi lŕ đầy đủ nhất về tiến trěnh đưa Ngô Đěnh
Diệm về Nam Việt Nam. Để viết cuốn sách nŕy,
tác giả Cooney đă xử dụng những nguồn tŕi liệu
từ chính Nhật Ký của Spellman, những hồ sơ mật
của FBI, vŕ qua những cuộc phỏng vấn, nęn tác
phẩm của Cooney lŕ một nguồn tŕi liệu rất có giá
trị [By using Spellman’s personal diary, FBI
classified files, and interviews, Cooney’s
volume is an engrossing, valuable document].
Vậy sau đây, tôi xin trích dẫn (từ trang 307 đến
trang 314) vŕi nét trong phần nói về những thế
lực nŕo đă toa rập với nhau để đưa người Ca-tô
Ngô Đěnh Diệm về cai trị miền Nam, nơi mŕ, kể cả
gần 800000 (SH -tám trăm ngŕn) người Ca-tô từ
Bắc di cư vŕo, Ca-tô giáo cũng chỉ chiếm có 10%
dân số miền Nam.
“Tuy
rằng không có mấy người biết điều nŕy, Hồng
Y Spellman đă đóng một vai trň rất quan
trọng trong việc tạo nęn sự nghiệp chính trị
của một người đă ở trong một Trường Dňng ở
New York trước đây, vừa trở thŕnh Thủ Tướng
của miền Nam Việt Nam: Ngô Đěnh Diệm. Ở
Diệm, Spellman nhěn thấy những đặc điểm mŕ
ông ta muốn có trong mọi người lănh đạo:
Ca-tô cuồng nhiệt vŕ chống Cộng đięn cuồng…
Một tín đồ
Ca-tô trung thŕnh, Diệm ở trong Trường Dňng
do sự cầu xin của người anh, Ngô Đěnh Thục,
một Giám mục Ca-tô. Lŕ một người độc thân
rất sůng tín, Diệm đă tự tách měnh ra khỏi
thế giới, đặc biệt lŕ ra khỏi quốc gia tan
tác bởi chiến tranh của ông ta. Vŕ ông ta
chỉ được biết đến bởi một nhóm nhỏ hoạt động
chính trị ở Mỹ. Ở Việt Nam tęn ông ta không
gây nęn một hứng thú nŕo…
Sau Điện
Bięn Phủ, Eisenhower muốn ủng hộ một chính
phủ mở rộng hơn lŕ chính phủ của ông Vua,
người không được quần chúng ủng hộ mấy vě đă
từ lâu bị coi như lŕ một bů nhěn của Pháp vŕ
Mỹ. Do đó Mỹ muốn có một người Quốc Gia ở
địa vị cao ở Nam Việt Nam để lŕm giảm sự hấp
dẫn của Hồ Chí Minh. Kết quả lŕ Bảo Đại đă
cho Diệm một chức vụ mŕ Diệm vẫn muốn – Thủ
Tướng.
[Về chuyện nŕy Bernard Fall viết trong
The Two Viet-Nams, trang 244: “Ý thức
được rằng měnh đang ném ngai vŕng đi, Bảo
Đại bắt Diệm phải thề (Theo Stanley
Karnow, trang 218, Bảo Đại bắt Diệm thề
trước cây Thập ác [before the crucifix])
trung thŕnh với ông, vŕ nhiều nhân chứng có
thẩm quyền quả quyết lŕ Diệm cũng cňn quỳ
xuống trước Hoŕng Hậu Nam Phương thề lŕ sẽ
lŕm hết sức trong phạm vi quyền lực của měnh
để “giữ ngai vŕng cho Hoŕng Tử Bảo Long, con
của Bảo Đại” (Fully
realizing that he was throwing his throne
away, Bao Dai allegedly made Diem swear a
solemn oath of allegiance to him, and
several authorative witnesses affirm that
Diem also swore on his knees to Empress
Nam-Phuong that he would do everything in
his power “to preserve the throne of
Viet-Nam for Crown Prince Bao-Long”, son of
Bao Dai.) Nhưng chúng ta đă biết, chỉ
hơn 1 năm sau, Diệm đă důng tiền của CIA để
tổ chức cuộc Trưng Cầu Dân Ý gian lận để phế
bỏ Bảo Đại vŕ tự phong lęn lŕm Tổng Thống.
Về vụ nŕy Bernard Fall cũng viết, trang 257:
“Trong hầu hết các nơi bỏ phiếu, có nhiều
ngŕn phiếu nhiều hơn lŕ số cử tri đă bỏ cho
Diệm . Thí dụ, Ở vůng Saigon-Chợ Lớn, đếm
được 605205 phiếu tręn số 450000 cử tri ghi
danh”.
(In nearly all electoral areas, there were
thousands more “Yes” votes than voters. In
the Saigon-Cholon area, for example, 605,025
votes were cast by 450,000 registered
voters)
Diệm trở về
Saigon ngŕy 26 tháng 6, 1954, sau Edward
Lansdale vŕi tuần. Lansdale lŕ trům CIA về
quân sự ở Saigon, đặc trách cuộc chiến không
theo quy ước
[có nghĩa lŕ
đánh phá ngầm]
“Giáo hoŕng
quan tâm đến sự cŕng ngŕy cŕng thắng lợi của
Cộng sản do đó lŕm suy yếu giáo hội,” “Giáo
hoŕng ra lệnh cho Spellman khuyến khích Mỹ
tham chiến ở Việt Nam.”
Do đó
Spellman xếp đặt một chiến dịch hňa điệu kỹ
cŕng để dựng lęn chế độ Diệm.
(16)
Qua tŕi liệu tręn,
vŕ phối hợp với nhiều tŕi liệu khác, thí dụ như
của Joseph L. Daleiden, một học giả Ca-tô
Giáo trong cuốn The Final Superstition,
chúng ta thấy rő vai trň then chốt của Vatican
đă dự phần đưa tới việc Mỹ tham chiến ở Việt
Nam. Chúng ta cũng cňn biết, Hồng Y Spellman
đă đến Việt Nam nhiều lần, đi tới các tiền
đồn để khuyến khích lính Mỹ chiến đấu cho Chúa:
“Trong một bŕi
học thuộc Giáo hội thời Trung Cổ, Spellman bảo
với binh sĩ Mỹ lŕ họ lŕ những “thánh chiến quân”
tham gia vŕo cuộc chiến của Chúa Ki Tô chống
Việt Cộng vŕ dân chúng Bắc Việt”
(John Cooney, p.384: In a lesson from the
medieval Church, Spellman told the troops they
were “holy crusaders” engaged in “Christ’s war
against the Viet-cong and the people of North
Vietnam).
Nhưng tại sao
Chúa lại chống Cộng ở một nước nhỏ bé xa xôi như
Việt Nam, sao Chúa không chống Cộng ở Nga, ở
Tŕu, hay ở Ba Lan, Tiệp Khắc ngay bęn Âu Châu,
hay ở Cuba sát nách Mỹ? Vatican, thęm một
lần nữa, đă mang tội với dân tộc Việt Nam vŕ các
tín đồ Ca-tô Giáo Việt Nam phải gánh cái hậu quả
nŕy. Các bậc lănh đạo Ca-tô luôn luôn đưa Chúa
Ki Tô ra lŕm cái bung xung để đẩy mạnh sự cuồng
tín của đám tín đồ ngu dốt. Chúng ta cũng thấy
rő, Ngô Đěnh Diệm chẳng qua chỉ lŕ một con cờ
của lięn minh Mỹ-Vatican. Vŕ Ngô Đěnh Diệm không
thể ngờ được rằng về sau, vě quyền lợi của
Vatican vŕ của Mỹ, cả Vatican vŕ Mỹ đều bỏ rơi
měnh, đưa đến một kết quả quá bi thảm cho chính
bản thân. Thật lŕ tội nghiệp. Dưới hěnh thức nŕo
thě thực dân cũng đều như nhau. Ngŕy nay, những
tŕn dư của Cần Lao Ca-tô cňn cố gắng “phục
hồi tinh thần Ngô Đěnh Diệm” mŕ không biết
rằng họ đang phục hồi tinh thần Tam Đại Việt
Gian của dňng họ Ngô Đěnh.
Tręn đây chúng ta
thấy rő những vận động của Vatican vŕ Ca-tô giáo
Mỹ để đưa Ngô Đěnh Diệm về, đẻ ra một đứa con ở
miền Nam mang cůng tęn “Quốc Gia Việt Nam” nằm
trong sự chăn nuôi của Mỹ. Mỹ không ngần ngại
nói thẳng ra chính quyền miền Nam lŕ đứa con
Mỹ đẻ ra.
Chúng ta hăy đọc
một đoạn trong cuốn The Vietnam Wars:
1945-1990 của Marilyn B. Young, p.
58:
“Mỹ
đă tạo nęn Nam Việt Nam vŕ người lănh đạo
(Ngô Đěnh Diệm);
thật lŕ rő rŕng lŕ mọi chống đối Diệm đều
được coi lŕ hŕnh động thů nghịch, một sự tấn
công vŕo đứa con mới đẻ của Mỹ. Thượng nghị
sĩ Kennedy nói vŕo năm 1956, “Đây lŕ đứa
con đẻ của chúng ta, vŕ nếu nó rơi vŕo
vňng nạn nhân của bất cứ sự hiểm nghčo nŕo
đe dọa sự hiện hữu của nó – Cộng sản, chính
trị vô chính phủ, sự nghčo khó v..v… - thě
Mỹ sẽ chịu trách nhiệm; vŕ uy tín của chúng
ta ở Á Châu sẽ chěm xuống thấp hơn.”
Nhưng thật
ra thě, cái mŕ Mỹ đă hết sức dặn ra
[như dặn
đẻ, labored] không phải lŕ một quốc gia
dân chủ, độc lập mới mŕ lŕ một gia đěnh cai
trị độc tŕi được giữ tại vị bởi một quyền
lực ngoại quốc.” (17)
Trong cuốn
America’s Longest War 1950-1975 của
George C.Herring, John Wiley & Sons, New
York, 1979, có cả một Chương, Chương II, với đầu
đề: Đứa Con Đẻ Của Chúng Ta: Sự Dựng Lęn
Một Quốc Gia ở Nam Việt Nam, 1954-1961
(Our Offspring: Nation-Building in South
Vietnam, 1954-1961). Tác giả trích dẫn lời phát
biểu của Thượng Nghị Sĩ Kennedy, trang 43: “Đó
lŕ đứa con đẻ của chúng ta, chúng ta không
thể bỏ nó, chúng ta không thể không để ý đến
nhũng nhu cầu của nó” (It is our offspring,
we cannot abandon it, we cannot ignore its
needs).
Vŕ
trong cuốn Cuộc Chiến Bất Tận: Cuộc Đấu Thanh
Của Việt Nam Để Giŕnh Độc Lập (The Endless
War: Vietnam.s Struggle For Independence,
Columbia University Press, New York, 1989)
Giáo Sư James P. Harisson viết, trang 210:
Dů sao thě, vị
Tổng Thống tương lai Kennedy có thể phát biểu
trong ngŕy 1 tháng 6, 1956: “Nếu chúng ta không
phải lŕ cha mẹ của đứa nhỏ Nam Việt Nam, thě
chắc chắn chúng ta lŕ cha đỡ đầu của nó. Chúng
ta chủ tọa khi khai sinh ra nó, chúng ta giúp đỡ
để cho nó sống, chúng ta đă giúp để tạo thŕnh
tương lai của nó.” Rồi ngay trong ngŕy ông ta bị
ám sát chết, 23 tháng 11, 1963, Kennedy lại nói
thęm: “Không có Mỹ thě chỉ qua đęm lŕ Nam Việt
Nam sụp đổ”.
(18)
Nhưng tręn thực
tế, Mỹ đă đẻ ra một đứa con đầu óc bất běnh
thường, bị mę hoặc bởi những sự hoang đường của
một tổ chức buôn thần bán thánh lŕ Ca-tô Rô-ma
Giáo vŕ trở thŕnh cuồng tín. Đứa con nŕy tự nhận
lŕ một phán quan Tây Ban Nha (Spanish
Inquisitor), nghĩa lŕ một người không ngại tŕn
nhẫn tra tấn rồi mang đi giết những người không
chịu chấp nhận đức tin Ca-tô giáo. Bởi thế cho
nęn khi thấy đứa con đẻ ra không thể trưởng
thŕnh theo ý muốn của měnh, Mỹ đă bật đčn xanh
để cho các tướng tá dưới quyền đứa con nŕy bóp
mũi cho nó chết yểu chỉ sau có 9 năm. Đó thường
lŕ số phận của những tay sai vô trí, phục vụ cho
quyền lợi của ngoại bang.
Tại sao lá bŕi Ngô
Đěnh Diệm lại thất bại? Đă có quá nhiều sách
viết về chế độ Ngô Đěnh Diệm vŕ tại sao Mỹ phải
thay ngựa giữa dňng. Ở đây tôi chỉ nęu ra vŕi lý
do chính, qua nhận định của chính người Mỹ về
thực chất chính quyền Ngô Đěnh Diệm vŕ những
chính sách thất nhân tâm của ông ta vŕ gia
đěnh..
Thật vậy, chúng ta
có thể đọc Bernard B. Fall trong cuốn
The Two Viet-Nams", Frederik A. Praeger
Publisher, New York 1967, trang 236:
Tính hiếu chiến
của Ngô Đěnh Diệm thuộc loại như thế nŕy: Đức
tin của ông ta ít có tính chất từ ái của các
tông đồ hơn lŕ tính hiếu chiến tŕn nhẫn của một
Đại Phán Quan Tây Ban Nha của Tňa Án Dị Giáo
(Torquemada); vŕ Quan điểm của ông ta về chính
quyền thě ít có tính chất của một tổng thống
theo hiến định của một nước cộng hňa hơn lŕ một
bạo chúa theo truyền thống quan lại phong kiến .
Một người Pháp theo Ca tô Giáo khi nói chuyện
với ông ta muốn nhấn mạnh về ảnh hưởng văn hóa
Pháp đối với ông Diệm đă nhấn mạnh những từ ngữ
như "tín ngưỡng của chúng ta", thě Diệm thản
nhięn trả lời rằng: "Ông biết mŕ, tôi tự coi tôi
như lŕ một người Ca-tô Tây Ban Nha", có nghĩa
lŕ, ông ta lŕ một đứa con tinh thần
(của Giáo Hội La
Mă) của một đức tin hung hăng, hiếu chiến hơn
lŕ một tín đồ dễ dăi vŕ khoan dung giống như
người Pháp theo hệ phái Ca-tô Gallican."
(19)
Joseph L.
Daleiden, một người Ca-tô, viết trong cuốn “The
Final Superstition”, Prometheus Books, New
York, 1994, p. 62:
"Spelllman
lŕ người chủ chốt của giáo hoŕng lŕm cho Mỹ
tham chiến sâu đậm ở Việt Nam. Theo một bức
thư chính thức của Vatican, giáo hoŕng "důng
Spellman để khuyến khích Mỹ tham chiến ở
Việt Nam."
Mọi viện
trợ nhân đạo cho miền Nam đều đi qua các cơ
sở của giáo hội Ca-tô. Tuy rằng những chính
sách như vậy đưa đến việc cải đạo hŕng loạt,
số tín đồ Ca-tô
chỉ chiếm vŕo khoảng từ 12 tới 13 phần
trăm của dân số miền Nam. Không lạ lůng gě
mŕ khối đa số Phật Giáo bất běnh đưa đến
việc công khai chống đối chính sách của
Diệm. Těnh trạng ngŕy cŕng suy kém, Diệm đă
důng đến biện pháp bắt giữ hŕng loạt, đŕn áp
Phật tử, đóng cửa chůa chiền vŕ tu viện. Qua
kinh nghiệm quá khứ, Giáo hội chắc hẳn đă
biết rằng sự đŕn áp chỉ lŕm cho lý tưởng
mạnh hơn. Trước sự quan sát kinh hoŕng của
thế giới, giới Phật tử đă phải důng tới hŕnh
động chống đối tięu cực rốt ráo vŕ nhiều
tăng sĩ đă tự thięu. Trong những khoảng thời
gian đáng sợ đó, tôi, một tín đồ Ca-tô,
không nhớ có một lời chỉ trích chính sách
của Diệm từ một linh mục hay giám mục Ca-tô
nŕo. Tuy nhięn, sự việc đă lęn quá mức
đối với Tổng Thống John Kennedy, ông ta thôi
không ủng hộ Diệm nữa. Ít lâu sau đó Diệm bị
hŕnh quyết trong một cuộc lật đổ chính
quyền. Qua cái diễn tiến kinh khủng nŕy vai
trň của giáo hội Ca-tô đă theo đúng
cái tiến trěnh lịch sử nhơ nhớp của giáo
hội."(20)
Sau đây lŕ nhận
định của Giáo sư Mortimer T. Cohen trong
cuốn From Prologue To Epilogue In Vietnam,
trang 240, 41, 61:
Diệm lŕ một
người Ca-tô thuộc thời Trung Cổ - ông ta
đúng, mọi người khác đều sai. Chân lý
(Phúc Âm)
có quyền ưu tięn, những sự sai lầm không có
quyền nŕy. Vŕ, biết rő bản chất bất ổn định
của quyền cai trị của ông ta, ông ta bị ám
ảnh bởi ý tưởng lŕ người nŕo phę běnh bất cứ
điều gě về chế độ của ông ta cũng lŕ những
kẻ thů thâm căn cố đế.
Ông ta lŕ
thánh Dominique
(Người được
Giáo Hội Ca-tô Giáo giao cho nhiệm vụ phát
động những Tňa Án Xử Dị Giáo (The
Inquisition) trong thời Trung Cổ).
Tháng 5
1955, ông ta mở chiến dịch Tố Cộng. Hiệp
Định Genčve đặc biệt cấm không được trả thů
chính trị.
Do đó, Diệm
đă khởi sự những sự thů nghịch. Chính hắn,
bằng chính sách tấn công tięu diệt Việt
Minh, đă khởi sự cuộc chiến ở miền Nam. Vŕ
chúng ta cần nhấn mạnh lŕ, hắn ta hŕnh động
như vậy không phải lŕ để trả đũa bất cứ sự
khięu khích nŕo của Việt Minh, nhưng từ sự
thúc đẩy lŕ phải tięu diệt Cộng đỏ - tinh
thần của một tęn Ca-tô
thời Trung Cổ đi săn lůng kẻ lạc đạo...
(21) [Chúng ta nęn nhớ, không phải những
người kháng chiến đều lŕ Cộng sản vŕ đa số
không hiểu Cộng sản lŕ gě. Họ theo Việt Minh
chống Pháp vě lňng yęu nước, thế thôi.]
Giáo sư Cohen viết
không sai, cuộc chiến ở miền Nam phát khởi lŕ từ
chính sách của Ngô Đěnh Diệm lŕm cho một số
người ở miền Nam bị dồn đến đường cůng, cho nęn
nổi giậy để chống những chính sách của chính
quyền gia đěnh trị, tôn giáo trị Ngô Đěnh Diệm.
Sự nổi giậy nŕy dần dần bŕnh trướng thŕnh Mặt
Trận Giải Phóng Quốc Gia, vŕ sau đó, để đối phó
với sự đŕn áp của chính quyền Diệm do Mỹ đứng
đŕng sau, đă phải chịu sự chi phối vŕ chỉ đạo
của Bắc Việt từ năm 1960. Về Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam chúng ta có thể đọc trong vŕi cuốn sách
điển hěnh như của Jean Lacouture với cuốn
Vietnam: Between Two Truces, Vintage
Book, 1966, Chương 3: The Birth of The
National Liberation Front; Frances
Fitzgerald với cuốn Fire In The Lake,
1972, Chương 4: The National Liberation Front,
Phần The Origins Of The National Liberation
Front; vŕ nhất lŕ cuốn The
Pentagon Papers, Published by The New York
Times, 1971, Chapter 2, pp. 67-78:
Sau đây lŕ vŕi
đoạn điển hěnh trong cuốn The Pentagon
Papers, tŕi liệu của Ngũ Giác Đŕi,
hiển nhięn không phải thuộc loại phản chiến hay
thięn Cộng:
Tŕi liệu
Ngũ Giác Đŕi nói, těnh báo
Mỹ ước tính trong thập nięn 1950 lŕ chiến
tranh phát khởi phần lớn lŕ do sự nổi giậy ở
miền Nam để chống chế độ tham nhũng vŕ cŕng
ngŕy cŕng đŕn áp dân chúng của Ngô Đěnh Diệm
.
Tŕi liệu
Ngũ Giác Đŕi nói về những năm 1956-1959, khi
mŕ cuộc nổi giậy bắt đầu, hầu hết những
người đứng lęn cầm vũ khí lŕ những người
Việt miền Nam vŕ những nguyęn nhân họ chiến
đấu không có cách nŕo có thể bảo đó lŕ do kế
hoạch tính toán trước ở Bắc Việt.
Chỉ có rất
ít bằng chứng lŕ Bắc Việt đă chỉ đạo, hoặc
có khả năng để chỉ đạo, những sự bạo động ở
miền Nam
(3 tháng cuối
1957: 75 vięn chức địa phương bị ám sát.
Ngŕy 22 tháng 10, 1957, 13 người Mỹ bị
thương trong 3 cuộc nổ bom ở Saigon)
Từ năm 1954
đến năm 1958 Bắc Việt tập trung vŕo sự phát
triển nội bộ, hiển nhięn lŕ hi vọng vŕo một
cuộc thống nhất đất nước hoặc qua cuộc bầu
cử theo như Hiệp Định Genčve hoặc lŕ kết quả
của sự sụp đổ đương nhięn của chế độ Diệm
yếu ớt. Cộng sản để lại ở miền Nam một bộ
phận nňng cốt khi họ đi tập kết ra Bắc năm
1954 sau cuộc chiến với Pháp chấm dứt, nhưng
những cán bộ được lệnh chỉ được “tranh đấu
chính trị”
[để sửa soạn
kiếm phiếu trong cuộc bầu cử mŕ Bắc Việt hi
vọng, vŕ điều nŕy không vi phạm hiệp định
Genčve].
Tháng 5,
1959, các nhŕ lănh đạo Bắc Việt quyết định
nắm quyền cuộc nổi giậy cŕng ngŕy cŕng lớn
mạnh ở miền Nam.
Tŕi liệu
Ngũ Giác Đŕi nói, cả těnh báo Mỹ vŕ các tů
binh Việt Cộng đều cho sự thŕnh công nhanh
chóng của Việt Cộng sau 1959 lŕ do những sai
lầm của Diệm.
Tŕi liệu
Ngũ Giác Đŕi mô tả trạng thái tâm lý của Ngô
Đěnh Diệm như lŕ của một “Đại Phán Quan Tây
Ban Nha).
(22)
Phę běnh chiến
dịch Tố Cộng với những kết quả khủng khiếp
của nó qua một vŕi con số trích dẫn mŕ tôi
không muốn kę ra ở đây, Avro Manhattan viết
trong cuốn Vietnam: Why Did We Go,
1984, trang 99, như sau:
Đằng sau
cái bề mặt (Tố Cộng), mục tięu thực sự của
nó lŕ Ca-tô hóa quốc gia. Sự đŕn áp của
Ca-tô ở Nam Việt Nam không phải lŕ sự tác
động của một cá nhân cuồng tín, hay của một
nhóm cá nhân thí dụ như ba anh em của Diệm,
hiến thân cho chính sách Ca-tô hóa một nước
Phật Giáo. Nó lŕ phó sản của một chính sách
dŕi hạn đă được tính toán cẩn thận, nhận
thức vŕ đẩy mạnh bởi những bộ óc mŕ những
mục tięu căn bản lŕ bằng mọi giá, bŕnh
trướng một tôn giáo mŕ họ tin chắc rằng lŕ
một tôn giáo chân thật duy nhất tręn thế
giới.
Người gây
cảm hứng chính vŕ theo đuổi chính sách nŕy,
như chúng ta đă thấy, lŕ Giáo Hoŕng Pius
XII. Chính sách đó hoŕn toŕn hợp điệu với
chiến lược toŕn cầu của ông ta, nhắm tới hai
mục tięu căn bản: tięu diệt Cộng Sản, vŕ
bŕnh trướng Giáo Hội Ca-tô.
(23)
Tręn đây chỉ lŕ
vŕi nhận định điển hěnh. Trong bŕi “Vŕi
Nét Về Cụ Diệm” độc giả có thể đọc thęm
nhiều nhận định tương tự, không kể 100 danh nhân
trí thức Việt Nam cũng nhận định về chế độ Ngô
Đěnh Diệm trong cuốn “Việt Nam Máu Lửa Quę
Hương Tôi” của cựu Thiếu Tướng Đỗ Mậu.
Sự thất bại của lá
bŕi Ngô Đěnh Diệm
Chúng ta có thể
tóm tắt sự thất bại của lá bŕi Ngô Đěnh Diệm như
sau:
1).
Vě Mỹ đă chọn lầm người. Mỹ phải biết
rằng, đối với tuyệt đại đa số người Việt Nam,
Ca-tô giáo đă mang một bộ mặt “phi dân tộc”, một
tôn giáo ngoại lai theo nghĩa có những sắc thái
xa lạ với truyền thống dân tộc Việt Nam, đă có
thŕnh tích giúp thực dân Pháp lập được chế độ nô
lệ ở Việt Nam. Mặt khác, Mỹ cũng phải biết lŕ
Ca-tô giáo chỉ lŕ một thiểu số ở Việt Nam, trong
khoảng 5 – 7%. Ngay cả khi 7, 8 trăm ngŕn người
Ca-tô từ Bắc di cư vŕo Nam năm 1954, tỷ số ở
miền Nam cũng không quá 10%. Đưa một người Ca-tô
như Ngô Đěnh Diệm, vô tŕi, vô đức, nhu nhược,
tuyệt đối không có thŕnh tích yęu nước nŕo, lŕm
quan cho Pháp, vŕ trong khi cả nước kháng chiến
thě nằm an vị trong các nhŕ Dňng Ca-tô ở ngoại
quốc, thě thử hỏi Diệm lŕm sao có được sự hậu
thuẫn của người dân miền Nam, ngoŕi đám giáo dân
di cư từ miền Bắc vŕ một số gia nô ủng hộ Diệm
vě quyền lợi nhưng sẵn sŕng quay mặt chống Diệm
như lịch sử đă chứng tỏ. Diệm được Hồng Y
Spellman, với sự phụ giúp của ngoại trưởng John
Foster Dulles cůng một vŕi chính khách Ca-tô Mỹ
khác, theo lệnh của Vatican, vận động với Mỹ đưa
Diệm về cầm quyền ở Nam Việt Nam vě Diệm thuộc
loại người Ca-tô cuồng tín khát máu Tây Ban Nha
trong thời Trung Cổ, chống Cộng đięn dại nęn
đương nhięn có thể tin cậy để chống Cộng cho Mỹ
vŕ cho Vatican. Nhưng đây lại chính lŕ nguyęn
nhân thất bại của lá bŕi Ngô Đěnh Diệm. Ngoŕi ra
Vatican cũng cňn góp phần vận động, thuyết phục
Mỹ tham chiến ở Việt Nam. Cái tội nŕy của
Vatican cộng thęm với cái tội của Ca-tô giáo
Việt Nam đối với dân tộc Việt Nam sẽ được ghi
vŕo sử sách
2). Chế độ Ngô
Đěnh Diệm lŕ một chế độ bạo ngược,
chuyęn chế, gia đěnh trị, tôn giáo trị, không có
sự hậu thuẫn của quần chúng. Chính sách “Tố
Cộng” của Ngô Đěnh Diệm lŕ một chính sách tŕn
bạo, ngu xuẩn, đă lŕm người dân cŕng ngŕy cŕng
oán ghét, vě giết người bừa băi không phân biệt,
cho rằng cứ theo kháng chiến đương nhięn phải lŕ
Cộng Sản. Hơn nữa, chính sách nŕy cňn cho phép
Ca-tô giáo vu khống những người có máu mặt lŕ
Cộng sản để chiếm đoạt tŕi sản ở nhiều nơi, đặc
biệt lŕ ở miền Trung dưới quyền lănh chúa Ngô
Đěnh Cẩn. Đó lŕ một chế độ mŕ hầu hết những
người nắm quyền hŕnh chánh, quân sự vŕ những
nghị sĩ Quốc hội lŕ những gia nô bất tŕi, vô
lięm sỉ. Trong cuốn “Tyrants, History’s 100
Most Evil Despots and Dictators”, Barnes &
Noble, NY, 2004, Nigel Cawthorne đă đưa Ngô Đěnh
Diệm vŕo danh sách 100 bạo chúa tręn thế giới.
3). Chính cái
chất Ca-tô Giáo cuồng tín,
tổng hợp của ngu dốt, kięu căng, huęnh hoang,
hợm hĩnh [theo giáo sư Nguyễn Mạnh Quang] của
Diệm đă lŕm hại Diệm. Sách lược Ca-tô hóa
miền Nam bằng thủ đoạn tięu diệt các giáo phái
khác của Diệm trong một nước mŕ Ca-tô giáo chỉ
chiếm có 7% lŕ một sách lược ngu xuẩn, đi ngược
lại tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyęn của dân tộc,
đă đưa đến sự oán ghét của tuyệt đại đa số người
dân Việt Nam. Sách lược nŕy đă ghi thęm một
chương ô nhục vŕo lịch sử giáo hội Ca-tô giáo
Việt Nam, một giáo hội vốn đă nổi tiếng lŕ: “Hễ
phi dân tộc thě thể nŕo cũng phản bội dân tộc.”
4). Vě Diệm vi
phạm Hiệp định Geneva,
được Mỹ hỗ trợ trong chính sách “cường quyền
thắng công lý” của Mỹ, phá cuộc Tổng Tuyển Cử
qui định vŕo năm 1956 vě biết měnh sẽ thua đậm,
nęn nếu Bắc Việt có xâm nhập miền Nam thě lý
do của họ cũng chính đáng, vě Nam Bắc không
phải lŕ hai nước rięng biệt, chỉ lŕ tŕm thời lŕ
hai miền rút quân, chờ ngŕy Tổng Tuyển Cử để
quyết định tương lai của đất nước qua giải pháp
chính trị.
Hăy để tâm suy
nghĩ một chút. Trước těnh trạng Ngô Đěnh Diệm
không chịu thi hŕnh điều khoản Tổng Tuyển Cử
trong hiệp Định Geneva, Việt Minh phải lŕm gě?
Việt Minh động vięn người dân, tốn bao xương máu
trong cuộc kháng chiến chống Pháp, cuối cůng đi
đến chiến thắng Điện Bięn Phủ, chấm dứt nền đô
hộ của thực dân Pháp, thu hồi độc lập cho đất
nước, phải chăng chỉ để chia nước Việt Nam thŕnh
hai miền rięng biệt, để cho miền Nam trů phú
thóc gạo, lâm, ngư sản v…v… vŕo tay một kẻ không
hề có một công trạng gě với đất nước như Ngô
Đěnh Diệm, một người thuộc dňng họ Tam Đại Việt
Gian như Giáo sư sử Nguyễn Mạnh Quang đă chứng
minh, vŕ nằm yęn trong vŕi Trường Dňng Công Giáo
ở ngoại quốc trong khi đa số người dân đang
kháng chiến chống Pháp, tự nhięn ở đâu được Mỹ
mang về? Người miền Nam không ai biết đến Diệm.
Khi Diệm về, chỉ có Lansdale vŕ một số vięn chức
Mỹ cůng một số người Ca-tô đón. Hai bęn đường từ
phi trường Tân Sơn Nhứt về không có một ai mang
cờ hoan hô. Trong chính quyền Diệm, người quốc
gia theo Diệm chỉ lŕ một số sĩ quan cao cấp đă
těnh nguyện theo học các trường sĩ quan do Pháp
thŕnh lập để giúp Pháp chống lại Việt Minh kháng
chiến, vŕ một số bị cưỡng bách động vięn để
chiến đấu dưới quyền Pháp trong cuộc chiến Đông
Dương thứ nhất, 1945-1954. Nếu không tin ở giải
pháp chính trị để tiết kiệm xương máu người dân
thay vě theo đuổi giải pháp quân sự, lŕ đất nước
sẽ thống nhất qua cuộc Tổng Tuyển Cử vŕo năm
1956 theo quy định của Hiệp định Genčve thě Việt
Minh có chịu ký Hiệp định Genčve không khi đang
thắng thế. Thống nhất đất nước lŕ mục tięu tối
hậu không thể thay đổi của Việt Minh vŕ rất hợp
với lňng dân, với truyền thống dân tộc, vŕ xóa
bỏ chính sách chia Việt Nam lŕm ba Kỳ để trị của
Pháp.. Nhưng Mỹ đă vě những quan niệm sai lầm về
chính trị nęn đă důng miền Nam lŕm tiền đồn
chống Cộng cho Mỹ, vi phạm Hiệp định Genčve, vŕ
đưa Việt Nam vŕo một cuộc chiến tŕn khốc vô ích
vě kết cục không thay đổi: Việt Nam vẫn đi đến
thống nhất dů bắt buộc phải důng đến giải pháp
quân sự.
II. Những hoạt
động ngầm để phá Bắc Việt.
Tưởng chúng ta
không nęn quęn lŕ ngay từ sau Hiệp Định đěnh
chiến 1954, Mỹ đă gửi Lansdale ra ngoŕi Bắc để
phá hoại, tuyęn truyền, khai thác sự ngu dốt, mę
tín vŕ cuồng tín của người Ca-tô, cổ vő họ di cư
vŕo Nam lŕm hậu thuẫn cho Ngô Đěnh Diệm với
những khẩu hiệu như “Chúa đă vŕo Nam” vŕ
“Đức Mẹ đă bỏ miền Bắc vŕo Nam” v..v.. để
dụ đám giáo dân thấp kém. Vě vậy, khoảng tręn
dưới 800 ngŕn Giáo dân Công Giáo đă ŕo ŕo kéo
vŕo Nam, không buồn để ý đến chuyện những khẩu
hiệu lố bịch tręn đă chứng tỏ lŕ nếu tin như vậy
thě thŕnh ra Ông Mác đă đuổi Chúa vŕ Đức Mẹ chạy
từ Bắc vŕo Nam, tuy rằng Chúa vŕ Đức Mẹ đều lŕ
những bậc toŕn năng, toŕn trí, quyền phép vô
cůng, lŕm gě cũng được, cůng lúc chứng minh
trěnh độ vŕ ý thức tôn giáo của giáo dân Ca-tô
Việt Nam. Thật lŕ tội nghiệp cho đầu óc của họ.
Chúng ta hăy đọc một đoạn trong cuốn The
Vietnam Wars: 1945-1990 của Marilyn B.
Young về những hoạt động phá hoại của
Lansdale vŕ toán bán quân sự (paramilitary) của
ông ta ở ngoŕi Bắc, trang 45:
Hoạt động phá
ngầm những thỏa hiệp ở Geneva bắt đầu cůng lúc
với sự ký kết Hiệp Định vŕo ngŕy 21 tháng 7,
1954. Lansdale đă có mặt tại chỗ. Nhiệm vụ lúc
đầu của Lansdale lŕ, qua mặt Pháp vŕ hoạt động
với những cảm těnh vięn Việt Nam trong cuộc
chiến bất quy ước, nay chuyển sang hướng những
“chiến dịch bán quân sự trong những vůng Cộng
sản.” Ở Hŕ-Nội, toán của ông ta phát tán những
tờ truyền đơn phao tin bịa đặt sai lầm về těnh
trạng kinh tế vŕ điều chỉnh tiền tệ ở ngoŕi Bắc,
gây nęn sự hoảng sợ trong giới có tiền; chúng đổ
đường vŕo běnh xăng của các xe buýt ở Hŕ Nội,
lŕm khó khăn phương tiện giao thông gây nęn sự
bất măn; chúng důng những chięm tinh gia tięn
đoán về những thięn tai sẽ xẩy ra, phao tin lŕ
quân Tŕu (của Lư Hán) cướp bóc vŕ hăm hiếp.
Một giá trị
tuyęn truyền đặc biệt cho Diệm lŕ cuộc di dân
của gần một triệu người Ca-tô từ Bắc vŕo Nam
được tuyęn truyền lŕ “bỏ phiếu bằng chân” cho tự
do. Khuyến khích bởi các bề tręn Ca-tô vŕ tổ
chức bởi Lansdale vŕ toán của hắn ta, toŕn thể
các xứ đạo được các tầu hải quân Mỹ chở vŕo Nam,
đi theo các linh mục đă bảo họ Chúa Ki Tô đă vŕo
Nam, vŕ hứa hẹn sẽ được cung cấp đất đai vŕ mức
sống.
Một trong những
chiến dịch phao tin đồ hữu hiệu mŕ Lansdale phát
triển lŕ Mỹ sẽ ủng hộ một cuộc chiến mới, trong
đó vő khí nguyęn tử chắc chắn sẽ được důng. Điều
nŕy đă lŕm gia tăng số người di cư vŕo Nam. Với
sự thích thú của trẻ con, Lansdale phúc trěnh
cho CIA những chiến thắng như vậy, tất cả đều vi
phạm Hiệp Định Geneva. Ở trong Nam, Mỹ cũng bận
bịu không kém, đưa lậu vŕo súng ống, đạn dược,
máy phát thanh, một số důng trong Nam, một số để
gửi ra ngoŕi Bắc.
(24)
Đọc cuốn “Cuộc
Chiến Bí Mật Chống Hŕ Nội: Kennedy vŕ Johnson Sử
Dụng Những Điệp Vięn, Nhân Vięn Phá Hoại Ngầm,
Quân Nhân Hoạt Động Ngầm ở Bắc Việt” (The
Secret War Against Hanoi: Kennedy’s and
Johnson’s Use of Spies, Saboteurs, and Covert
Warriors in North Vietnam) của Richard H.
Shultz, Jr., Harper Collins Publishers,
N.Y., 1999, chúng ta thấy Mỹ đă cố těnh phá ngầm
Bắc Việt từ 1954 đến 1972.
Đây
lŕ một cuốn sách dŕy 400 trang, nói về những
chiến dịch ngầm (covert operations) của Mỹ ở Bắc
Việt vŕ Nam Việt. Sách phân tích kỹ những hoạt
động ngầm của Lansdale vŕ CIA ở Bắc Việt từ năm
1954 đến năm 1972, vŕ phân tích tại sao tất cả
những chiến dịch phá ngầm nŕy đều thất bại.
Những nguyęn nhân chính để cho những hoạt động
của các toán bán quân sự (paramilitary) xâm nhập
Bắc Việt bằng máy bay, tŕu hải quân hay bằng
đường bộ, không lŕm được gě lŕ: hoặc bị bắt ngay
(captured soon after landing); mất lięn lạc (no
contact; lost contact); không có đồng chí (no
friendly elements); không có hệ thống těnh báo
(no intelligence networks); không có căn cước
giả vŕ giấy chứng minh để sống trong những nơi
bị kiểm soát an ninh chặt chẽ ở Bắc Việt (no
false identification and documentation to
survive in the controlled-security environment
of North Vietnam).
Vậy thực chất cuộc
can thiệp của Mỹ vŕo Việt Nam lŕ như thế nŕo.
Ngŕy nay chúng ta đă có khá nhiều tŕi liệu bạch
hóa vấn đề nŕy. Rő rŕng, chẳng phải lŕ Mỹ đến để
bảo vệ tự do dân chủ cho měền Nam. Chính quyền
Ngô Đěnh Diệm do Mỹ dựng lęn tuyệt đối không
phải lŕ một chính quyền tôn trọng tự do dân chủ.
Mỹ tự ban cho měnh quyền của một cảnh sát quốc
tế, ép buộc mọi quốc gia phải theo sự xếp đặt
của měnh, nghĩa lŕ, áp dụng luật rừng vŕ cường
quyền thắng công lý của kẻ mạnh, muốn can thiệp
vŕo nước nŕo thě can thiệp. Theo những tŕi liệu
hiện hữu của một số học giả Mỹ, cuộc can thiệp
của Mỹ vŕo Việt Nam nằm trong chủ trương bá
quyền của Mỹ tręn khắp thế giới chứ không phải
chỉ rięng ở Việt Nam. Mỹ đă can thiệp vŕo nội bộ
của nhiều nước: El Salvador, Nicaragua,
Guatamala, Dominican Republic, Indonesia,
Philippines, Thailand v..v.. (Xin đọc cuốn
9-11 , Seven Stories Press, New York, 2001,
của Noam Chomsky, hoặc cuốn “The Chomsky
Reader, Edited by James Peck, Pantheon
Books, New York, 1987).
Muốn hiểu về
nguyęn nhân cuộc chiến tranh Việt Nam, về tại
sao dů không có một lý do nŕo chính đáng mŕ Mỹ
lại can thiệp vŕo Việt Nam, chúng ta cần hiểu rő
hơn về nước Mỹ, hay nói đúng hơn, về “ý tưởng
quốc gia của Mỹ” (idea of America). Tôi đă đọc
rất nhiều sách viết về cuộc chiến ở Việt Nam
nhưng tôi không thấy cuốn nŕo đŕo sâu khía cạnh
nŕy như cuốn Kết Quả Ngược Chiều: Việt Nam –
Những Huyền Thoại Khiến Chúng Ta Chiến Đấu,
Những Ảo Tưởng Giúp Chúng Ta Thua, Cái Di Sản
Vẫn Ám Ảnh Chúng Ta Ngŕy Nay (Backfire:
Vietnam – The Myths That Made Us Fight, The
Illusions That Helped Us Lose, The Legacy That
Haunted Us Today, Ballantine Books, New York,
1985) của Giáo sư Loren Baritz, Trưởng
Khoa Lịch Sử, Đại Học Rochester vŕ cuốn “Chiến
tranh chưa chấm dứt: Việt Nam vŕ lương tâm nước
Mỹ” (The Unfinished War: Vietnam and the
American Conscience, Beacon Press, Boston, 1982)
của Walter H. Capps, Giáo sư Đại Học
Santa Barbara, California, nguyęn Giám đốc trung
tâm nghięn cứu các định chế dân chủ Robert
Hutchins (Former director of the Robert Hutchins
Center for the study of Democratic
Institutions).
Đây lŕ vŕi cuốn
sách cần phải đọc để hiểu rő người Mỹ vŕ hiểu
thái độ kięu căng tự tôn của Mỹ, đưa đến những
hŕnh động bất chấp đạo đức, bất chấp luật lệ
quốc tế. Vấn đề chính lŕ chính sách ngăn chận
Cộng sản không phải lŕ vě tự thân lý thuyết Cộng
sản mŕ lŕ để duy trě vị thế tối cao cầm đầu thế
giới như Mỹ vẫn tự cho Mỹ cái vị thế đó.
Ở tręn chúng ta đă
nói về chính trị của Mỹ, chính trị của “cường
quyền thắng công lý”, chính trị của kẻ mạnh ăn
hiếp kẻ yếu. Sau đây chúng ta sẽ đi vŕo hai yếu
tố tôn giáo vŕ kinh tế. Ki tô giáo đă tạo nęn
một huyền thoại về nước Mỹ, vŕ yếu tố kinh tế
của Mỹ thě theo như nhận định của Alexis de
Tocqueville khi quan sát nước Mỹ: “Khi
chúng ta đŕo sâu vŕo đặc tính quốc gia của người
Mỹ, chúng ta thấy rằng họ chỉ těm kiếm giá trị
của mọi thứ ở tręn thế giới nŕy trong một câu
hỏi nŕy: nó sẽ mang lại bao nhięu tiền?” (As
one digs deeper into the national character of
the Americans, one sees that they have sought
the value of everything in this world only in
the answer to this single question: how much
money will it bring in?)
http://www.brainyquote.com/quotes/authors/a/alexis_de_tocqueville.html#WbCwRTOy0IIGUEej.99
B. Yếu Tố Tôn
Giáo:
Có thể nói, yếu tố
tôn giáo đă ăn sâu vŕo tâm khảm của người Mỹ,
cho nęn những hŕnh động chính trị, ngoại giao vŕ
xă hội của Mỹ tręn thế giới vŕ ở trong nước Mỹ,
không ít thě nhiều, bao giờ cũng có ảnh hưởng
của mŕu sắc tôn giáo. Nhưng đây chính lại lŕ một
loại khuyết tật tinh thần (handicap) của nước
Mỹ. Mỹ cũng như Âu Châu, bị ảnh hưởng nặng nề
của cuốn Thánh Kinh của Ki Tô Giáo. Ảnh hưởng
nŕy đă tạo nęn trong thế giới Tây phương một tâm
cảnh đại chúng “sợ Gót”, nghĩa lŕ sợ một cái
gě do chính měnh tưởng tượng ra. Cũng vě cái
“sợ” nŕy mŕ con người Âu Mỹ trở thŕnh vô nhân
tính, vô cůng tŕn bạo nhưng vẫn tự cho měnh lŕ
thánh thiện vě những hŕnh động tŕn bạo đó lŕ để
phục vụ Gót, vinh danh Gót, để truyền bá Phúc
Âm trong khi Tân ước không hề có Phúc Âm.
Phúc Âm chỉ lŕ
điều tín đồ tin vŕo một cuộc sống đời đời tręn
thięn đường sau khi chết, một cái bánh vẽ tręn
trời theo Mục sư Ernie Bringas, tręn một thięn
đường giả tưởng mŕ chính Giáo hoŕng John Paull
II đă phủ nhận sự hiện hữu của một thięn đường
tręn các tầng mây. Lŕ dân của Gót, với tâm cảnh
sợ Gót, cho nęn phải tuân theo những lời dạy của
Gót.
Lịch sử cho thấy,
trong nhiều thế kỷ, Ca-tô La-mă giáo nắm quyền
sinh sát ở Âu Châu, đă gây nęn 7 núi tội ác,
giết hại hơn 200 triệu người vô tội, thuộc mọi
tầng lớp Nam, Phụ, Lăo, Ấu. Vŕ những hŕnh động
của Mỹ tręn khắp thế giới cũng phản ánh cái
huyền thoại về dân Mỹ lŕ dân của Gót cho nęn
không ít thě nhiều cũng phần nŕo theo những lời
dạy của Gót trong Cựu Ước. Jerry Falwell, một
nhŕ truyền giáo tręn TV nổi tiếng của Mỹ vŕ có
nhiều ảnh hưởng tręn xă hội vŕ chính trường Mỹ,
đă đưa lęn những quan điểm có thể nói lŕ chung
cho nhiều người Ki Tô Mỹ: “Gót đă nâng nước
Mỹ lęn mức vĩ đại mŕ không có nước nŕo đă từng
được hưởng vě gia sản của Mỹ lŕ một nền Cộng Hňa
cai quản bởi những luật được xác định trong cuốn
Thánh Kinh” [The Unfinished War, p.
124: God promoted America to a greatness no
other nation has ever enjoyed because her
heritage is one of a republic governed by laws
predicated on the Bible.] vŕ “Tính theo đầu
người, nước Mỹ có nhiều công dân sợ Gót hơn bất
cứ nước nŕo khác” [Ibid., p. 127: America
has more God-fearing citizens per capita than
any other nation on earth.]. Lŕ một nhŕ truyền
đạo Ki Tô tręn TV cực kỳ bảo thủ, những tư tưởng
của Falwell chứng tỏ hắn lŕ một kẻ ngu đạo quá
khích một cách đięn rồ. Sau đây lŕ vŕi đoạn điển
hěnh nói lęn quan điểm của một kẻ tin tất cả vŕo
Thánh Kinh như Jerry Falwell, Ibid., p.129:
Nhŕ thờ địa
phương lŕ một đạo binh có tổ chức được trang bị
để cho trận chiến, sẵn sŕng tấn công kẻ thů. Lớp
học ngŕy chủ nhật lŕ tiểu đội tấn công. Nhŕ thờ
phải lŕ một đạo binh có kỷ luật, sẵn sŕng tấn
công. Tín đồ Ki Tô Giáo, giống như các nô lệ
vŕ binh lính, không được chất vấn.
(25)
Falwell đưa ra kế
hoạch mŕ các tín đồ Ki Tô phải lŕm để rao giảng
“phúc âm” [sic] tręn khắp thế giới:
Điều quan trọng
lŕ phải oanh tạc lănh thổ, đến gần bờ biển vŕ
oanh tạc kẻ thů. Điều quan trọng lŕ phải gửi đến
những tŕi liệu
[để truyền đạo].
Điều quan trọng lŕ phải đưa đến những chương
trěnh phát thanh vŕ důng tiện nghi gọi điện
thoại để nghe lời cầu nguyện. Điều quan trọng lŕ
phải důng mọi ảnh hưởng bęn ngoŕi đó trŕn ngập
tręn thŕnh trě của kẻ thů.
Nhưng sau cůng
Thủy Quân lục chiến phải tiến vŕo, mặt đối mặt
với kẻ thů, vŕ kéo lęn ngọn cờ, nghĩa lŕ, xây
nhŕ thờ ở địa phương.
Tôi muốn nói
đến những Thủy quân lục chiến đă được Gót kęu
gọi để tiến qua sự oanh tạc vŕ hốc cá nhân vŕ,
với lưỡi lę trong tay, đối đầu với kẻ thů mặt
đối mặt vŕ từng người một đem chúng vŕo sự quy
phục Phúc Âm của Ki-tô, đưa họ vŕo ngôi nhŕ của
Gót, kéo lęn ngọn cờ vŕ coi đó như lŕ an toŕn..
Các ngươi vŕ Ta được kęu gọi để chiếm hữu cho
đến khi Ông ta
(Gię-su) trở
lại. (26)
Có lẽ đọc xong
đoạn tręn ai mŕ không cho rằng Jerry Falwell chỉ
lŕ một tęn đięn, không hơn không kém, thě chính
người đó cũng đięn. Nhưng điều thę thảm lŕ, theo
Giáo sư Capps, những quan điểm của Falwell
đáng chú ý vě chúng tięu biểu cho cảm nghĩ chung
của nhiều nhóm Ki Tô Giáo (They are
significant because they represent the general
feeling of a host of Christian groups). Giáo sư
Capps viết không sai. Trong cuộc chiến ở Việt
Nam, lính Mỹ đă viết tręn mũ sắt những câu: “Giết
một tęn Á Đông cho Gót” (Kill a gook for
God), “A good VC is a dead one”, “we
have to destroy it to save it” ở Bến Tre, vŕ
Hồng Y Spellman sang Việt Nam nhiều lần, ủy lạo
binh sĩ Mỹ rằng họ đang chiến đấu cho Chúa để
chống Cộn sản vŕ để bảo vệ nền văn minh Ki-tô
Giáo, một nền văn minh quy thần, hạ thấp phẩm
giá con người, rất xa lạ đối với nền văn minh
nhân bản vŕ nhân chủ của Việt Nam, nhưng lại tự
cho lŕ cao cả. Vŕ Bush con đă theo đúng kế hoạch
của Falwell ở Iraq. Sau cuộc tấn công ở Iraq,
dựa tręn những lý do ngụy tạo như Iraq lięn hệ
tới quân khủng bố ở Mỹ ngŕy 9/11, vŕ Iraq có
những vũ khí giết người hŕng loạt, vŕ Bush tuyęn
bố “nhiệm vụ đă hoŕn thŕnh” [mission
accomplished] thě các nhŕ truyền giáo Tin Lŕnh
đă đổ xô vŕo Iraq với “Viện trợ Ki-Tô”
(Christian aid) để rao bán phúc âm, mua linh hồn
cho Chúa. Falwell, một người tuyệt đối tin vŕo
Gót, chết năm 2007, khi 73 tuổi. Bertrand
Russell, một học giả vô thần, sống tới 98 tuổi
(1872-1970).
Cái huyền thoại về
nước Mỹ vŕ niềm hoang tưởng vŕo “dân của Gót” đă
khiến cho Mỹ lâm vŕo cuộc chiến Việt Nam để cuối
cůng đi đến thất bại... Trong cuốn Kết Quả
Ngược Chiều: Việt Nam – Những Huyền Thoại Khiến
Chúng Ta Chiến Đấu, Những Ảo Tưởng Giúp Chúng Ta
Thua, Cái Di Sản Vẫn Ám Ảnh Chúng Ta Ngŕy Nay
(Backfire: Vietnam – The Myths That Made Us
Fight, The Illusions That Helped Us Lose, The
Legacy That Haunted Us Today, Ballantine Books,
New York, 1985) của Giáo sư Loren Baritz, Trưởng
Khoa Lịch Sử, Đại Học Rochester, đă viết một
đoạn, có thể nói lŕ giải thích tại sao Mỹ lại
can thiệp vŕo Việt Nam vŕ tại sao Mỹ thất bại,
trang 10-11:
Người Mỹ
không biết gě về người Việt Nam, không phải
lŕ chúng ta đần độn, mŕ vě chúng ta tin vŕo
một số điều về chính chúng ta... Muốn hiểu
sự thất bại của chúng ta, chúng ta cần phải
suy nghĩ về thế nŕo lŕ một người Mỹ... Huyền
thoại về Mỹ như lŕ một thị trấn tręn một
ngọn đồi uẩn hŕm Mỹ lŕ gương mẫu đạo đức cho
phần cňn lại của thế giới, một thế giới cho
rằng sẽ đặc biệt ngưỡng mộ chúng ta. Điều
nŕy có nghĩa lŕ chúng ta lŕ một dân tộc được
[Gót, lẽ dĩ nhięn của Ki Tô Giáo]
chọn, mỗi người trong đó, vě được sự ưu đăi
vŕ sự hiện diện của Gót, có thể vật chết dễ
dŕng 100 kẻ thů ngoại đạo...
Có vô số
cách để người Mỹ biết trong lňng – nơi duy
nhất mŕ những huyền thoại có thể sống được –
lŕ chúng ta được chọn để dẫn giắt thế giới
trong vấn đề đạo đức công cộng vŕ dạy cho
thế giới về đức tính chính trị. Chúng ta tin
rằng những sự tốt đẹp trong nước chúng ta
kết thŕnh sức mạnh đủ để triệt hạ đối thủ
của chúng ta, những người, theo định nghĩa,
lŕ kẻ thů của đạo đức, của tự do, vŕ của
Gót.
(27)
Mỹ tự cho rằng Mỹ
lŕ khuôn mẫu “thiện” của cả thế giới, vě Mỹ tin
tưởng ở Gót (In God We Trust), vě Mỹ lŕ “quốc
gia của Gót” (God’s Country), vŕ Mỹ lŕ “dân của
Gót” (God’s people). Theo tinh thần Ki Tô Giáo
vŕ lịch sử Ki Tô Giáo: kẻ nŕo không tin Gót của
Ki-tô Giáo lŕ kẻ ác, cho nęn với quan niệm trắng
đen, thiện chống ác, vŕ đă tin vŕo ưu thế của vũ
khí, vŕ kinh tế, Mỹ đă tự tạo cho měnh một huyền
thoại về nước Mỹ. Lŕ một nước mŕ 80% theo Ki Tô
Giáo, Mỹ bị ảnh hưởng của cuốn Thánh Kinh rất
nhiều. Nhưng đây lại lŕ một nghịch lý, vě tręn
thực tế, xét đến những tệ đoan xă hội, tội phạm
xă hội mŕ theo thống kę của chính Mỹ, Mỹ chiếm
giải quán quân tręn thế giới, khoan kể lŕ Mỹ đă
důng “cường quyền thắng công lý” can thiệp vŕo
nội bộ nhiều nước tręn thế giới, gây nęn bao
cảnh tang tóc, thě khó có thể coi Mỹ lŕ một
khuôn mẫu thiện tręn thế giới. Như lŕ một nguồn
tâm linh vŕ đạo đức để chỉ đạo xă hội, Ki Tô
Giáo đă thất bại ở Âu Châu vŕ hiện trạng xă hội
Mỹ cũng đă chứng tỏ lŕ Ki Tô Giáo cũng thất bại
ở Mỹ, tuy Mỹ lŕ nước có đa số theo Ki Tô Giáo,
trong đó có 23% theo Ca-tô La-mă Giáo.
Không ai hiểu Mỹ
bằng người Mỹ, nhất lŕ giới trí thức Mỹ. Linh
mục Michael Novak, Giáo sư đại học Stanford,
viết trong cuốn Việt Nam: Sự Khủng Khoảng Của
Lương Tri (Vietnam: Crisis of Conscience)
trang 14, về khía cạnh tôn giáo của cuộc chiến ở
Việt Nam theo quan niệm của Mỹ:
Đối với
những người với một sự hiểu biết thần học
đơn giản, thě ý nghĩa của cuộc chiến thật lŕ
rő rŕng. Đây lŕ cuộc chiến của “những kẻ tốt
chống kẻ xấu”, “những kẻ tin Gót chống những
kẻ vô thần”, “ánh sáng chống sự man rợ”.
Cuộc chiến chúng ta đối diện trong thế kỷ
của chúng ta lŕ cuộc chiến cho nền văn minh
của chúng ta mŕ “hai phe đối đầu lŕ những
quốc gia nô lệ vŕ những quốc gia trong thế
giới tự do”, cuộc chiến chống “những kẻ man
rợ đe dọa những dân tộc văn minh, luật pháp
vŕ trật tự, vŕ lối sống của người Mỹ”. Đó lŕ
cách nhěn lịch sử của những người tin vŕo
một cuộc chiến giữa thiện vŕ ác trong ngŕy
tận thế...
Trong những
phim “cao-bồi”, bao giờ cũng có hai phe
rięng biệt. Một phe chiến đấu cho luật pháp
vŕ trật tự, phe kia vô luật pháp vŕ vô trật
tự. Nếu trong chuyện phim có những dân da
đỏ, sự xung đột lŕ giữa những người da mŕu
dă man vŕ những người da trắng văn minh, yęu
hňa běnh. Kết cục bao giờ cũng lŕ cảnh tŕn
bạo. Phe thắng lŕ phe có nhiều vũ khí tối
tân hơn hoặc rút súng nhanh hơn. Khi mŕ,
trong vŕi trường hợp, những kẻ xấu
(da mŕu)
tięu diệt một nhóm nhỏ những kẻ tốt (da
trắng), thě đó lŕ một sự tŕn sát độc ác
vŕ tŕn nhẫn; khi mŕ những kẻ tốt (da
trắng) giết vô số những kẻ xấu (da
mŕu), đó lŕ một sự chiến thắng của công
lý vŕ văn minh. (28)
Như tręn chúng ta
đă biết, Mỹ tự cho lŕ một thị trấn tręn một ngọn
đồi, vŕ lŕ cái đầu tầu kéo cả thế giới theo ý
định của Mỹ. Nhưng sự thực không như vậy, Mỹ lŕ
một cường quốc, vŕ bất kể tiến bộ về những gě,
nhưng tręn thực tế lại rất ấu trĩ về tâm linh.
Thật vậy, ảnh hưởng của cuốn Thánh Kinh vẫn đč
nặng tręn tâm tư người Mỹ, từ nguyęn thủ quốc
gia xuống đến thường dân, trong khi cuốn Thánh
Kinh đă không cňn mấy giá trị tôn giáo cũng như
trí thức trong thế giới Tây phương, khoan nói
đến thế giới Hồi giáo vŕ thế giới Đông phương.
Mỹ vẫn tin rằng sự giầu mạnh của Mỹ lŕ do sự ân
sủng của Gót [God] tuy rằng không có một người
Mỹ nŕo biết Gót lŕ cái gě. Chúng ta hăy đọc vŕi
đoạn trong cuốn “The Unfinished War: Vietnam
and the American Conscience” của Giáo sư
Walter H. Capps để hiểu rő hơn ảo tưởng vŕ ý
thức tôn giáo của người Mỹ.
Phương pháp
giải quyết của Do Thái-Ki tô lŕ đặt căn bản tręn
ý tưởng an ủi lŕ, chừng nŕo mŕ một người giữ
vững đức tin thě Gót sẽ đứng về phía họ vŕ hắn
ta, hoặc ít nhất lŕ chính nghĩa của hắn ta sau
cůng sẽ thắng.
(29)
Trong cuốn Sự
Xung Đột Giữa Các Nền Văn Minh Vŕ Sự Tái Lập
Trật Tự Thế Giới (The Clash of Civilizations
and the Remaking of World Order), Samuel P.
Huntington, lý thuyết gia chính trị thế giới
nổi tiếng của Mỹ, viết trong tập san Foreign
Affairs: Vŕo đầu thế kỷ 20, vị thế của Tây
phương bao trům thế giới, tạo nęn một tâm cảnh
chung trong thế giới Tây phương lŕ “văn minh
thế giới lŕ văn minh Tây phương, luật quốc tế lŕ
luật Tây phương”.
Sự bŕnh trướng của
Tây phương tręn thế giới từ thế kỷ 16 lŕ dựa
tręn sự phát triển kỹ thuật: kỹ thuật hŕng hải
để đi tới các nơi xa xôi, vŕ kỹ thuật vũ khí để
chiến thắng quân sự v..v..”Tây phương
thắng tręn thế giới không phải lŕ vě sự ưu việt
của những ý tưởng, hoặc giá trị, hoặc tôn giáo
Tây phương mŕ lŕ ưu thế trong sự áp dụng bạo lực
một cách có tổ chức.” (Huntington, p.
51: The West won the world not by the
superiority of its ideas or values or religion
but rather by its superiority in applying
organized violence).
Người Tây phương
thường quęn đi sự kiện nŕy; người các nước khác,
nhất lŕ các nước đă một thời bị Tây phương đô
hộ, không bao giờ quęn. Thật vậy, Tây phương lŕ
nơi sản xuất ra nhiều lý tưởng xă hội như tự do,
phát xít, dân chủ theo quan niệm Ki Tô
(Christian democracy), dân chủ xă hội (social
democracy), đoŕn thể, kinh tế tự do v..v.. nhưng
Tây phương chưa bao giờ có được một tôn
giáo lớn (theo nghĩa lŕ chủ lực
tinh thần hướng dẫn đạo đức vŕ tính thiện của
con người. TCN). Những tôn giáo lớn tręn
hoŕn cầu đều lŕ sản phẩm của những nền văn minh
ngoŕi Tây phương, vŕ trong hầu hết các trường
hợp, đă có trước nền văn minh Tây phương.
(Huntington, Ibid., p. 54: The West,
however, has never generated a major religion.
The great religions of the world are all
products of non-Western civilizations and, in
most cases, antedate Western civilization). So
sánh giáo lý, lịch sử Ki Tô Giáo (Chính Thống,
Ca Tô, Tin Lŕnh) với các tôn giáo Á Đông như
Thích, Nho, Lăo vŕ Ấn Giáo, chúng ta thấy rő
ngay điều nŕy.
Uy tín của
Huntington
không ai có thể phủ nhận. Ông ta lŕ giáo sư đại
học Harvard, giữ chức vụ Giám Đốc Viện Nghięn
Cứu Chiến Lược John M. Olin vŕ Chủ Tịch Học Viện
Harvard Nghięn Cứu Các Địa Phương Tręn Thế Giới.
Ông cũng từng lŕ Giám Đốc Kế Hoạch An Ninh cho
Hội Đồng An Ninh Quốc Gia dưới thời Tổng Thống
Carter, vŕ Chủ Tịch Hội Chính Trị Khoa Học Hoa
Kỳ. Cho nęn giá trị nghięn cứu trong tác phẩm
của ông ta chúng ta có thể tin tưởng. Nhưng điều
thę thảm lŕ Ki Tô Giáo vẫn tự cho lŕ một tôn
giáo có giá trị nhất tręn thế giới bất kể sự phá
sản tâm linh vŕ đạo đức của Ki Tô Giáo tręn thế
giới như lịch sử đă chứng minh.
Người Mỹ tự cho lŕ
thánh thiện vě lŕ con dân của Gót. Nhưng sự thực
giá trị xă hội của Mỹ ra sao? Không ai có thể
phủ nhận Mỹ lŕ nước giŕu nhất vŕ mạnh nhất về
quân sự. Nhưng cňn về các vấn đề đạo đức xă hội,
đạo đức thế giới, đức tính của con người, thě Mỹ
không có gě để so sánh với các quốc gia Á Châu.
Một số thống kę của chính Mỹ, chứng tỏ rằng về
những tệ đoan xă hội, tội ác trong xă hội v…v…,
Mỹ chiếm giải quán quân tręn thế giới.
1.
Thống kę năm 2000:
14 triệu người tuổi từ 12 trở lęn důng ma túy
(6.3% dân số).
2.
Năm 2001: 15.980
vụ giết người, 90.491 vụ hiếp dâm. Cứ 2 phút lại
có một người bị hiếp (tŕi liệu của bộ Tư Pháp)
3.
Tręn 1 triệu gái
măi dâm hŕnh nghề tręn đường phố, nhŕ tắm hơi
(sauna), phňng tẩm quất (massage parlor) vŕ qua
điện thoại, trong đó có 300.000 vị thŕnh nięn.
Thŕnh phố New York tốn $43 triệu mỗi năm để kiểm
soát các vấn đề lięn quan đến măi dâm.
4.
14.000.000 người
nghiện rượu.
5.
Có 2.200.000 tů
nhân Mỹ đang ngồi tů. Cả thế giới có 9.000.000
người đang ngồi tů, Mỹ chiếm 22% trong khi tỷ lệ
dân số của Mỹ tręn thế giới chỉ có 5%.
6.
Ở Trung Quốc thě
cứ trong 100.000 người có 111 người ngồi tů, ở
Mỹ lŕ 686 người, gấp hơn 6 lần trong khi dân số
Mỹ chỉ bằng 24% dân số Trung Quốc.
7.
Hơn 50% các cặp vợ
chồng do Chúa kết hợp đi đến ly dị.
8.
Từ 4% đến 10% dân
chúng đồng tính luyến ái.
9.
Tręn 5 ngŕn linh
mục Công Giáo bị truy tố về tội cưỡng dâm trẻ em
phụ tế vŕ nữ tín đồ.
Mỹ can thiệp vŕo
Việt Nam cũng không phải vě ông Hồ lŕ cộng sản,
hay ông Hồ lŕ con bŕi của Nga sô. Trong Phần I,
tôi đă đưa ra vŕi tŕi liệu của chính quyền Mỹ lŕ
không těm thấy bất cứ một bằng chứng nŕo chúng
tỏ Ông Hồ Chí Minh lŕ tay sai, theo sự chỉ đạo
của Nga sô hay Trung Quốc để kháng chiến mŕ một
số người chống Cộng cực đoan vŕ một vŕi tác giả
ngoại quốc ngu ngơ gọi lŕ “gây chiến” ở Việt
Nam.
Kháng chiến không
phải lŕ “gây chiến”.
Không có bằng
chứng nhưng cứ cho lŕ có, đó lŕ cái cớ để Mỹ can
thiệp vŕo Việt Nam. Chúng ta đă biết, Mỹ tự cho
měnh cái quyền can thiệp vŕo bất cứ nước nŕo mŕ
Mỹ muốn. Mỹ chỉ cần đưa ra một cớ nŕo đó, dů
không phải lŕ sự thật, vŕ điều đó cũng đủ để Mỹ
can thiệp vŕo nội bộ bất cứ nước nŕo. Nhưng Mỹ
chỉ dám đụng đến các nước nhỏ, ít khả năng phản
kháng, chứ Mỹ không dám đụng đến các cường quốc
khác như Nga sô, Trung Quốc. Ngŕy nay khí thế
của Trung Quốc đang cŕng ngŕy cŕng lęn, lan sang
cắm důi, gây ảnh hưởng ở Phi Châu, những thuộc
địa trước của khối Tây phương vŕ Mỹ. Trước těnh
trạng như vậy Mỹ chỉ cňn có thể phŕn nŕn vŕ than
phiền.
Trong cuốn Can
Thiệp Vŕ Cách Mạng: Mỹ Đối Đầu Với Những Phong
Trŕo Nổi Giậy Tręn Khắp Thế Giới
(Intervention and Revolution: America’s
Confrontation With Insurgent Movements Around
The World, A Meridian Book, New York, 1972), Sử
gia kięm nhŕ khoa học chính trị (historian and
political scientist) Richard J. Barnet, đă từng
lŕ nhân vięn Bộ Ngoại Giao cũng như Bộ Quốc
Phňng Hoa Kỳ, viết, trang 301:
Sự hiện diện
của một sự đe dọa của Cộng Sản, ngay chỉ lŕ có
thể có sự đe dọa của Cộng Sản
(như ở Cộng Hňa
Dominique) cũng đủ để cho Mỹ biện minh cho
những sự can thiệp của Mỹ. Nhận định lŕ có sự đe
dọa cũng đủ để ngăn ngừa mọi chất vấn có thể đặt
ra về sự cần thiết hay đạo đức để dẹp bỏ sự đe
dọa. Mỹ cŕng ngŕy cŕng nói trắng ra khi tuyęn bố
lŕ Mỹ có quyền đơn phương quyết định lŕ một sự
xung đột ở bất cứ nơi nŕo tręn thế giới lŕ sự đe
dọa đối với nền an ninh quốc gia của Mỹ hay trật
tự thế giới vŕ Mỹ sẽ lŕm gě để đối phó. (30)
Một trong những lý
do Mỹ đưa ra để biện minh cho sự can thiệp của
Mỹ vŕo Việt Nam lŕ Mỹ đơn phương quyết định lŕ
chế độ Cộng Sản ở Việt Nam sau Genčve lŕ sự đe
dọa cho nền an ninh quốc gia của Mỹ, trong khi
không có bất cứ một bằng chứng nŕo chứng tỏ như
vậy. Cộng sản hay không thě Việt Nam cũng lŕ một
quốc gia nhỏ, nghčo, kém phát triển vŕ ở xa Mỹ
nửa vňng trái đất, lŕm sao có thể đe dọa nền an
ninh của Mỹ được. Cho nęn Mỹ đă chọn Việt Nam
lŕm tiền đồn chống Cộng, chống Cộng cho chỗ đứng
vŕ uy tín của Mỹ trong vůng, bất kể lŕ sau ngŕy
tuyęn bố đất nước độc lập, 2 tháng 9, 1945, Ông
Hồ Chí Minh đă viết 8 bức thơ gửi Tổng Thống
Truman vŕ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, yęu cầu Hoa Kỳ
ủng hộ tinh thần nền độc lập của Việt Nam vŕ cňn
ngỏ ý Việt Nam có thể lŕ một thị trường lớn cho
những sản phẩm của Mỹ, nhưng Mỹ không hề trả
lời.. Mỹ chọn Việt Nam lŕm tuyến đầu chống Cộng,
lŕm phňng tuyến cuối cůng chống sự bŕnh trướng
của Cộng Sản ở Á Châu, vě cho rằng Việt Nam lŕ
một nước nhỏ yếu không có khả năng chống lại ý
định của Mỹ, cho nęn Mỹ sẽ thŕnh công trong mục
đích chống Cộng cůng lúc tạo uy tín của Mỹ tręn
thế giới. Mặt khác Mỹ cňn muốn chứng tỏ cho thế
giới biết lŕ vũ khí vŕ chiến thuật của Mỹ có thể
đối phó với chiến thuật du kích của Cộng Sản. Vŕ
Việt Nam cũng lŕ chiến trường để cho Mỹ důng hết
vũ khí cũ, thử các vũ khí mới kể cả vũ khí hóa
học.
C. Yếu Tố Kinh Tế:
Viết về chiến
tranh Việt Nam, chúng ta không thể bỏ qua yếu tố
kinh tế. Phải chăng những lý do Mỹ đưa ra về sự
can thiệp vŕo Việt Nam chỉ lŕ, như Tướng Telford
TayLor, cố vấn trưởng của Mỹ tại Tňa Án
Nuremberg để xử các tội phạm chiến tranh Đức
quốc Xă (Chief counsel for the prosecution, with
the rank of Brigadier General, at the Nuremberg
war-crimes trials), đă viết trong cuốn:
“Nuremberg Vŕ Việt Nam: Một Tấn Thảm Kịch Của
Mỹ” (Nuremberg and Vietnam: An American
Tragedy, New York Times Book, 1970, trang 103):
“che dấu ý định khai thác Nam Việt Nam như lŕ
một căn cứ quân sự Mỹ để “ngăn chặn” Cộng Sản,
hay thống trị Đông Nam Á vŕ những tŕi nguyęn
thięn nhięn khổng lồ ở đó” [only to conceal
the intention to exploit South Vietnam as an
American military base to “contain” Communism,
or to dominate Southeast Asia and its enormous
natural resources].
Tây phương đă đến
Á Châu như lŕ những đế quốc thực dân, Á Châu
không có mấy lý do để tin tưởng rằng Mỹ nhân đạo
hơn những người da trắng đă đến trước. Những
hŕnh động của quân lực Mỹ đối với người dân ba
miền Việt Nam có thể nói lŕ cňn tŕn bạo vŕ vô
nhân tính hơn những thế lực thực dân trước, do
đó không thể nói lŕ Mỹ nhân đạo hay có ý tốt đối
với người dân Việt Nam. Vŕ chúng ta đă biết, mục
đích chính của Mỹ không phải lŕ giúp dân Việt
Nam.
Hŕnh động can
thiệp vŕo Việt Nam của Mỹ không nằm ngoŕi chủ
trương của Mỹ lŕ thiết lập một trật tự thế giới
ổn định (a stable world order), theo ý định của
Mỹ, mŕ trong cái gọi lŕ trật tự thế giới nŕy, Mỹ
nắm Ngân Hŕng Quốc Tế (World Bank), Quỹ Tiền Tệ
Quốc Tế (IMF = International Monetary Fund). Mỹ
đă důng những cơ quan nŕy để cho các nước nhỏ
đang mở mang vay nhẹ lăi, hỗ trợ những dự án có
lợi cho Mỹ, vŕ khi cần có thể lŕm sụp đổ nền
kinh tế địa phương. Thật vậy, theo Mục sư Robert
McAfee Brown (Ibid., trang 24) thě:
Trật tự thế
giới ngŕy nay rất lợi lộc cho những nhŕ tư bản
Mỹ, những người ngồi tręn chóp của đống lợi
nhuận. Ngoại viện của Mỹ cho những kém mở mang
được coi như lŕ một chủ nghĩa đế quốc mới; không
phải lŕ đế quốc quân sự mŕ lŕ đế quốc đô-la. Đế
quốc đô-la không hiển nhięn như đế quốc thực
dân; nó không toan tính thiết lập một văn phňng
chính trị thực dân. Nó mua chuộc những chính trị
gia bản xứ sẵn sŕng bán linh hồn vŕ xen vŕo nội
bộ của quốc gia qua những phương pháp kinh tế
chứ không phải lŕ chính trị. Nó cũng có hiệu lực
như lŕ thực dân quân sự nhưng khó mŕ có thể lột
mặt nạ của nó ra.
(31)
Trong cuốn
Turning Points in World History: The Vietnam
War, yếu tố kinh tế cũng được nói tới ở
trang 50:
Trong ngôn từ
chiến lược vŕ kinh tế, Đông Nam Á cũng lŕ vấn đề
quan trọng đối quyền lợi của Mỹ. Đông Nam Á rơi
vŕo tay Cộng Sản sẽ đe dọa chuỗi đảo trải dŕi từ
Nhật tới Phi Luật Tân, cắt đường hŕng không của
Mỹ tới Ấn Độ vŕ Nam Á vŕ dẹp bỏ phňng tuyến
phňng vệ đầu ỡ Thái Běnh Dương. Úc vŕ Tân Tây
Lan (New Zealand) sẽ bị cô lập. Vůng (Đông Nam
Á) có nhiều tŕi nguyęn thięn nhięn vŕ chiến
lược, gồm có thiếc, cao su, gạo, nguồn dầu dừa,
quặng sắt, đồng, tungsten, vŕ dầu hỏa. Mỹ không
chỉ bị cắt đứt, không tơ hŕo gě được những nguồn
tŕi nguyęn đó, mŕ tiềm năng về những thị trường
to lớn để tięu thụ những sản phẩm của Mỹ cũng bị
đe dọa.
(32)
Ở tręn tôi đă đưa
ra sơ lược ba yếu tố chính trị, tôn giáo, vŕ
kinh tế đă góp phần trong cuộc can thiệp của Mỹ
vŕo Việt Nam. Căn bản lŕ Mỹ đă chọn Việt Nam lŕm
địa bŕn chống Cộng ở Đông Nam Á, bất kể lŕ người
Việt Nam có muốn hay không. Mỹ đă quyết định
důng vũ lực để chống Cộng ở Việt Nam, Nam Việt
Nam lŕ phňng tuyến không cho Cộng Sản vượt qua,
vậy những “nếu” hay “tại vě” đặt ra để giải
thích cuộc can thiệp của Mỹ vŕo Việt Nam đều
không thích hợp. Mỹ sẽ nhảy vŕo can thiệp nếu có
nguy cơ miền Nam rơi vŕo tay Cộng Sản, bất kể lŕ
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam gồm 100% người Nam
hay 100% người Bắc. Nguy cơ nŕy cŕng ngŕy cŕng
hiện rő từ năm 1961 đến cao điểm vŕo những năm
1964-1965, cho nęn Mỹ đă tự tiện ồ ạt đem quân
vŕo Việt Nam. Nhưng nỗ lực quân sự của Mỹ cũng
không đi đến đâu trước ý chí cương quyết chống
xâm lăng của người dân Việt Nam cả hai miền. Mỹ
biết vậy cho nęn đă có những chính sách có thể
nói lŕ “diệt chủng”, giết dân không phân biệt,
kể cả người giŕ, phụ nữ vŕ trẻ con. Nhưng cuối
cůng Mỹ cũng phải giải quyết bằng cách tháo chạy
(run), được gọi bằng mỹ danh “Hňa běnh với danh
dự” (Peace with honor), qua Thỏa Hiệp Hňa Běnh
Paris năm 1973.
Thỏa Hiệp Hňa Běnh
Paris 1973: Chiến Tranh Chấm Dứt
Giáo sư Loren
Baritz viết trong cuốn Backfire, trang 275:
Điều Bắc Việt tin chắc lŕ văn hóa Mỹ sẽ không
thể kéo dŕi cuộc chiến đă chứng tỏ rằng đúng.
(The North’s conviction that American culture
would not be able to sustain the war proved to
be correct.). Cuộc chiến ở Việt Nam đă quá tốn
kém đối với Mỹ, vŕ Nixon muốn bảo đảm cái ghế
Tổng Thống của měnh, nęn bằng mọi cách phải đi
đến giải pháp “hňa běnh với danh dự”, danh dự
trong sự bỏ cuộc, tháo chạy, vě không thể thắng.
Vŕ chúng ta đă biết, Thỏa Hiệp Hňa Běnh Paris
1973 cuối cůng đă được ký kết giữa Mỹ vŕ Bắc
Việt, tręn thực tế, sau nhiều cuộc bŕn thảo giữa
Kissinger vŕ Lę Đức Thọ.
Đối với Mỹ, Thỏa
Hiệp Hňa Běnh Paris 1973 chỉ lŕ để cho Mỹ vuốt
mặt với dân chúng Mỹ qua chięu bŕi “Hňa běnh với
danh dự” (Peace with honor), quan niệm danh dự
của Mỹ: Mỹ rút hết quân ra, không cňn lính Mỹ
chết, vŕ lấy lại các tů binh bị Bắc Việt bắt. Số
phận VNCH Mỹ không mấy quan tâm, vŕ Mỹ biết rő
lŕ Bắc Việt không bao giờ từ bỏ mục tięu thống
nhất đất nước. Thỏa Hiệp Paris cňn tệ hơn lŕ
Hiệp Định Geneva, cho phép 150000 quân Bắc
Việt ở lại miền Nam cůng với 150000 quân thuộc
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nấp sau danh xưng
Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời miền Nam VN (PRG).
Câu đầu trong bản Thỏa Hiệp Hňa Běnh, mở đường
cho Bắc Việt thống nhất đất nước vŕ giữ toŕn vẹn
lănh thổ. Đây chính lŕ câu mŕ Kissinger định để
trong một đoạn sau của bản Thỏa Hiệp nhưng Bắc
Việt cương quyết đňi phải để đầu tięn vŕ
Kissinger đă nhượng bộ:
Điều 1. Mỹ
vŕ mọi nước khác tôn trọng nền độc lập, chủ
quyền, sự thống nhất, vŕ sự toŕn vẹn lănh
thổ của Việt Nam như đă được công nhận bởi
Hiệp Định Geneva 1954 về Việt Nam.
[Article 1:
The United States and all other countries
respect the independence, sovereignty,
unity, and territorial integrity of Viet-Nam
as recognized by the 1954 Geneva Agreements
on Viet- Nam.]
Nixon vŕ Kissinger
lŕ những chính trị gia xảo quyệt, đều biết rő lŕ
Thỏa Hiệp không kiến tạo hňa běnh ở Nam Việt
Nam. Vŕ đối với Mỹ, VNCH không lŕ gě, chỉ lŕ
tay sai để cho Mỹ thao túng. Hăy đọc những
bức thư của Nixon gửi cho Thiệu, đe dọa, ép
Thiệu phải ký vŕo Thỏa Hiệp Paris 73, mŕ chính
Kissinger đă công nhận lŕ có tính cách tŕn bạo
(brutality) trong cuốn Ending The Vietnam
War. Nixon viết thẳng, Thiệu không ký thě
Nixon sẽ ký tay đôi với Bắc Việt vŕ chấm dứt ủng
hộ, viện trợ cho Thiệu. “Văn khố quốc gia Mỹ
giải mật 150 giờ đồng hồ những lời nói của Nixon
trong những cuốn băng ghi âm. Nixon bảo
Kissinger nói với Thiệu – rằng Quốc hội Mỹ sẽ
cắt viện trợ cho Sŕi Gňn trừ phi Thiệu ủng hộ
Thỏa Hiệp.. Nixon nói “Tôi không biết lŕ sự đe
dọa đó đi đến đâu nhưng tôi sẽ lŕm bất cứ điều
nŕo nghĩa lŕ – nếu cần lấy đầu của hắn.”
(The National Archives released more than 150
hours of new tapes from Nixon.. Nixon asked
Kissinger to tell the South Vietnamese --
truthfully or not -- that the US Congress would
cut off aid to the Saigon government unless it
supported the accords. "I don't know whether
that threat goes far enough or not but I'd do
any damn thing that is -- or cut off his head if
necessary," Nixon said.)
Nixon cũng biết
rő lŕ thực chất Thỏa Hiệp chỉ lŕ một tờ giấy
lộn,
như Wilfred Burchett viết trong cuốn
Grasshoppers & Elephants; Why Viet Nam Fell,
trang 169, về lời hứa hẹn viết tręn giấy tờ của
Nixon đối với Thiệu: “Đây chỉ lŕ một mảnh
giấy không đáng để ý. Ký đi. Sau đó ông muốn lŕm
gě thě lŕm, vŕ chúng tôi sẽ ủng hộ ông hết měnh”
(It’s a scrap of paper. Sign it. Do what you
want later, and we’ll back you to the hilt. And
he (Thieu) had it in writing from Nixon). Nixon
cňn viết cho Thiệu, hứa như sau mŕ Thiệu tin
tưởng nęn đă phổ biến lời hứa hẹn nŕy vŕo năm
1975 khi Bắc Việt tấn công: “Ông hăy tin lời
bảo đảm tuyệt đối của tôi lŕ nếu Hŕ Nội không
theo đúng những điều khoản trong bản thỏa hiệp,
thě tôi sẽ có những hŕnh động nghięm khác trả
đũa ngay.” (Kissinger, Ibid., p. 385: You
have my absolute assurance that if Hanoi fails
to abide by the terms of this agreement it is my
intention to take swift and severe retaliatory
action). Nhưng ông Thiệu vŕ Hoŕng Đức Nhă, người
luôn luôn có mặt bęn ông Thiệu trong những cuộc
gặp gỡ với Tướng Haig, sứ giả của Nixon, không
biết lŕ lời của Tổng Thống Mỹ chỉ có giá trị cam
kết khi được Quốc hội phę chuẩn. Vŕ khi đó thě
Quốc hội Mỹ đă quyết định cắt kinh phí chiến
tranh ở Đông Dương.
Kissinger
viết rő, Ibid., 457:
“Những lá thư
của Tổng Thống không phải lŕ những cam kết hợp
pháp mŕ chỉ lŕ những biểu thị của ý định của vị
Tổng Thống đương quyền đối với những bất trắc dự
đoán có thể xẩy ra. Chúng đặt tręn những vị Tổng
thống kế tiếp một trách nhiệm tinh thần chứ
không phải lŕ pháp lý. Vŕ lẽ dĩ nhięn, không có
Tổng Thống nŕo có thể lŕm cho quốc hội cam kết
bằng một lời tuyęn bố đơn phương.” (33)
Như tręn đă
nói, không có phe nŕo tin tưởng lŕ Thỏa Hiệp Hňa
Běnh Paris 73 có giá trị mang lại hňa běnh cho
Nam Việt Nam.
Đặc biệt lŕ Mỹ, Mỹ muốn người Việt tiếp tục cuộc
chiến, cho nęn trước khi Thỏa Hiệp được ký kết
Mỹ đă thúc đẩy VNCH chiếm thęm nhiều đất vŕ cung
cấp cho VNCH một số quân cụ lớn lao. Marilyn B.
Young viết, Ibid., p. 275:
Kissinger
khuyęn Đại sứ Bunker lŕ hăy thúc đẩy những vị
chỉ huy quân lực VNCH hăy tiến chiếm nhiều đất
bao nhięu hay bấy nhięu trong những tuần lễ tới
vě có thể sẽ có cuộc ngưng bắn. Cůng vŕ thời
gian đó một chiến dịch tái vũ trang tęn lŕ “Nâng
Cấp” được gọi lại lŕ “Nâng Cấp Lęn Nữa”. Với
những cung cấp của “Nâng Cấp Lęn Nữa”, Saigon
được đăi ngộ bởi một không vận những đại bác 105
ly vŕ 155 ly, máy bay trực thăng, máy bay chiến
đấu (lŕm cho không quân của VNCH trở thŕnh lực
lượng không quân lớn thứ tư tręn thế giới), xe
thiết giáp, xe tăng, xe vận tải, vŕ đại pháo cho
thủy quân. Một tướng lănh Mỹ nói đůa: “Nếu
chúng ta cho những thứ nŕy cho Bắc Việt, chúng
có thể đánh chúng ta cho đến hết thế kỷ”
(34)
Vŕ chúng ta đă
biết, ngay sau cuộc ký kết Thỏa Hiệp Hňa Běnh
Paris 73, chính quyền miền Nam, với số lượng vũ
khí vŕ quân cụ mới, đă mở những cuộc hŕnh quân
lớn ở Cửa Việt vŕ vůng Quảng Trị để chiếm đất
dŕnh dân. Edwin E. Moise viết
năm 1998:
Chiến tranh
không ngưng ngay cả trong một ngŕy. Hầu hết
những cuộc đụng chạm trong những tháng đầu sau
cuộc ngưng bắn đều do Quân Đội VNCH, muốn có thể
chiếm được cŕng nhiều đất cŕng tốt trước khi CS
có thể tái dựng lực lượng quá nhiều. Những
phương thức để đi đến một cuộc dŕn xếp chính trị
cho tương lai Nam Việt Nam quy định trong Thỏa
Hiệp Paris bị ngăn chận bởi chính quyền Thiệu ở
Sŕi Gňn.
(35)
Vŕ ông Thiệu thě
chủ trương đuổi hết quân Bắc Việt vŕ cả quân của
PRG về Bắc. Vậy thě lŕm sao có được hňa běnh.
Chẳng vậy mŕ ngay ngŕy hôm sau Hiệp Định Paris
được ký kết, ông Thiệu ra lệnh phải tôn trọng
Thỏa Hiệp như thế nŕy: “Thấy CS ở đâu lŕ bắn
bỏ ngay, thấy ai tuyęn truyền cho CS cũng bắn bỏ
ngay” [Marilyn B. Young, The Vietnam
Wars: 1945-1990, p. 279: The next day Thieu
issued clear orders on how the cease-fire was to
be observed. If “Communists come into your
village, you should immediately shoot them in
the head”. Those who “begin talking in a
Communist tone… should be immediately killed”.]
Để đáp lại, phía
Bắc Việt cũng bŕnh trướng thế lực của họ trong
nhiều vůng ở miền Nam. Vŕ cuối cůng thě chiến
tranh cũng kết thúc, hňa běnh thực sự có tręn
đất nước sau ngŕy 30.4.1975. Tôi không muốn nói
đến vấn đề với lực lượng quân, dân, cán, chính
hăng say chống Cộng như thế vŕ với số vũ khí
quân cụ như thế mŕ tại sao chỉ có 55 ngŕy lŕ
miền Nam sụp đổ.
Thỏa Hiệp Paris
năm 1973, tręn thực tế được ký kết giữa Bắc Việt
vŕ Mỹ, giúp cho Mỹ “rút lui trong danh dự” vŕ
xóa sổ Nam Việt Nam,
nhưng theo quan điểm của môt Linh mục Việt Nam
thě đó lŕ “kế hoạch mầu nhiệm” trong sự quan
phňng của Thięn Chúa đă được an bŕi để hợp với
lňng người Ca Tô Giáo Việt Nam. Linh mục
Peter Hoŕng Omi nhận định: Nếu chúng ta
có một đức tin mạnh mẽ vŕo sự Quan Phňng của
Thięn Chúa thě chúng ta phải biết cảm tạ Thięn
Chúa vě tất cả những sự kiện xảy ra trong đời ta
vŕ trong Giáo Hội. Quí anh chị em nęn biết một
điều lŕ chẳng có gě xảy ra ngoŕi sự xếp đặt
trong Těnh Yęu Quan Phňng của Thięn Chúa. Chẳng
có thế lực trần gian nŕo có thể lčo lái Thięn
Chúa theo ý của měnh được!... Thięn Chúa có
chương trěnh cho mỗi người vŕ mỗi dân nước, vŕ
chương trěnh của Thięn Chúa thě tuyệt hảo.
Vậy thě không hiểu tại sao người Ca-tô giáo lại
chống chính quyền Cộng sản. Họ không sợ lŕm
nghịch ý Chúa, chương trěnh của Chúa cho dân
nước Việt Nam, rồi sẽ phải đầy đọa xuống hỏa
ngục để cho ngọn lửa vĩnh hằng của Chúa thięu
đốt không bao giờ dứt hay sao.
Mỹ nói lŕ đến Việt
Nam để giúp Việt Nam, tuy chẳng có Việt Nam nŕo
nhờ giúp. Vậy Mỹ đă lŕm những gě ở Việt Nam để
giúp Việt Nam? Nhiều lắm ! Đại Cương lŕ tŕn phá
đất nước Việt Nam, về sinh mạng cũng như về vật
chất, gọi lŕ để bảo vệ quan niệm về tự do, dân
chủ của Mỹ ở Việt Nam. Vậy chúng ta hăy xem Mỹ
thực hiện mục đích cao cả đó như thế nŕo.
Sơ Lược Những Tội
Ác Chiến Tranh Của Mỹ Ở Việt Nam
David
Lamb (UPI reporter 1960’s; Los Angeles Time’s
first peacetime bureau in VN) đă đưa ra một nhận
định khá đúng trong cuốn Vietnam, Ngŕy Nay
(“Vietnam, Now” , Public Affairs, NY, 2002)
trang 91:
Mỹ đă tới Việt
Nam để xây dựng nhưng rút cuộc lŕ phá hủy.
(The US had come
to Vietnam to build and ended up destroying.)
Trong cuốn “What
Are Our Herbicides Doing To Us? Defolation”
của Thomas Whiteside, George Wald viết
trong Lời Nói Đầu, trang xiii, xvi:
Tôi thấy không
có cách nŕo ra khỏi kết luận lŕ ở Nam Việt Nam
chúng ta đă phá hủy một cách có hệ thống một
quốc gia vŕ dân chúng của quốc gia đó – chính
cái quốc gia mŕ chúng ta nói rằng chúng ta chiến
đấu để duy trě quốc gia đó..
Những phương
thức của chúng ta ngŕy nay ở Việt Nam gồm có
những cuộc hŕnh quân chống quần chúng dân sự gần
như lŕ có tính cách diệt chủng hơn lŕ khởi một
cuộc chiến như người Mỹ thường hiểu trong quá
khứ, được chấp nhận bởi những nước văn minh vŕ
qui định trong Luật Quốc Tế. Sự důng bừa băi
những chất hơi cay, chất sát trůng vŕ chất khai
quang nổi bật trong những phương thức đó.
(36)
Mục đích chính
của Mỹ không phải lŕ để tạo nęn một miền Nam dân
chủ tự do.
Người Mỹ không có thực tâm, không có ý tốt giúp
Việt Nam, tất cả chỉ vě chính trị vŕ quyền lợi
của Mỹ. Người nŕo tin rằng Mỹ thực tâm giúp Nam
Việt Nam để bảo vệ những giá trị tự do dân chủ
cho người dân Nam Việt Nam lŕ đang nằm mơ. Hăy
xét đến thực chất của các chính quyền Ngô Đěnh
Diệm vŕ “Diệm không Diệm” của Nguyễn Văn Thiệu.
Hăy xét đến những chiến dịch quân sự dă man nhất
của Mỹ ở Việt Nam đối với người dân trong cuộc
chiến.
Tội ác chiến tranh
của Mỹ tręn thế giới vŕ ở Việt Nam thě không có
cách nŕo tả xiết. Nó thuộc loại vô nhân tính hay
nói đúng hơn, đó lŕ nhân tính Ki Tô, một nhân
tính bắt nguồn từ sự tự tin nước Mỹ lŕ nước của
Gót (God’s country) vŕ người dân Mỹ lŕ dân của
Gót "(God’s people). Tŕi liệu về những tội ác
chiến tranh của Mỹ tręn thế giới ngŕy nay có rất
nhiều. Ở đây tôi chỉ nói đến một phần nhỏ những
tội ác chiến tranh (war crimes) của Mỹ ở Việt
Nam. Có vŕi cuốn sách điển hěnh về tội ác chiến
tranh của Mỹ ở Việt Nam chúng ta cần đọc:
- Cuốn “Kill
Anything That Moves: The Real American War In
Vietnam” của Nick Turse, mới xuất bản ngŕy
15 tháng 1, 2013, đă đưa ra những hěnh ảnh thực
của quân đội Mỹ đối với người dân Việt Nam vŕ
đất nước Việt Nam.
- Cuốn:
“The War Behind Me: Vietnam Veterans
Confront The Truth About U.S. War Crimes, Inside
the Army’s Secret Archive of Investigation”
của Deborah Nelson.
-
Cuốn
Không Thể Chuộc Lỗi [Failure to Atone] của
Bác sĩ Allen Hassen, đă từng phục vụ ở Việt Nam.
- Cuốn : The
CIA and the Political Defeat of the U.S. in
Vietnam, của Zalin Grant.
- Cuốn The
Phoenix program của Douglas Valentine.
Vŕ một vŕi trang
nhŕ tręn Internet:
http://mwcnews.net/focus/analysis/24112-us-war-crimes-in-vietnam.html
US War Crimes in
Vietnam
http://www.latimes.com/la-na-vietnam20aug20-sg,0,1877284.storygallery
Vietnam – The War
Crimes Files
Chúng ta hăy đọc
vŕi đoạn điển hěnh tręn Internet, vŕ đây chỉ lŕ
đại cương, phần chi tiết những sự kiện trong bŕi
nŕy nằm trong rất nhiều tŕi liệu hiện hữu, vŕ
chúng ta
hăy tự vấn lương
tâm xem người Quốc gia chúng ta có trách nhiệm
gě về những sự kiện lịch sử nŕy hay không.
http://www.intellnet.org/resources/american_terrorism/Vietnamesevictims.html
American Terrorism
and Genocide of the Vietnamese People, 1945-1974
(Chủ Nghĩa
Khủng Bố Vŕ Diệt Chủng Dân Việt Nam Của Mỹ:
1945-1974)
Bŕi nŕy với nhiều
chi tiết hơn có tręn:
http://www.sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts25.php
Những tội
phạm chiến tranh thuộc Thủy, Lục, Không quân
Hoa Kỳ đă tŕn sát 3 triệu người ở Việt Nam,
trong rất nhiều nơi như Mỹ Lai. Hầu hết các
nạn nhân lŕ đŕn bŕ vŕ trẻ con.
CIA có ngay
cả một chương trěnh khủng bố chính thức của
quốc gia Mỹ ở Việt Nam, được biết lŕ “Chiến
Dịch Phụng Hoŕng” hay “Kế Hoạch Phụng
Hoŕng”. [Kế hoạch Phụng Hoŕng cňn được biết
dưới tęn “Kế Hoạch Ám Sát” (Douglas
Valentine, The Phoenix Program, p. 191:
“Phoenix was labeled an Assassination
Program”).] Qua Kế Hoạch Phụng Hoŕng, nhiều
trăm ngŕn người đă bị tra tấn đến chết trong
những “trung tâm thẩm vấn” tręn khắp Nam
Việt Nam. Những trung tâm tra tấn nŕy được
dựng lęn bởi Mỹ rő rŕng cho mục đích đó. Phụ
nữ luôn luôn bị hăm hiếp như lŕ một phần của
tra tấn trước khi bị giết.
Khủng bố, hăm hiếp vŕ giết người hŕng loạt
một cách đại qui mô tręn khắp miền quę lŕ
chính sách của tập thể Lục Quân, Không Quân,
Thủy Quân Lục Chiến, Thủy Quân Hoa Kỳ.
Cuộc tŕn sát ở Mỹ Lai lŕ một chiến
dịch trong Kế Hoạch Phụng Hoŕng.
Chính sách
diệt chủng dân Việt Nam của Mỹ có nguồn gốc
từ ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến.
Mỹ đă ủng
hộ Pháp trong toan tính lấy lại quyền cai
trị đẫm máu của thực dân Pháp ở Đông Nam Á.
Ngoŕi việc
lięn minh với những thế lực thực dân đŕn áp
dân Việt Nam, Mỹ đă thực sự phối hợp lực
lượng với những kẻ đă từng cộng tác với Nhật
Bản. Vŕ ai lŕ kẻ thů mới của Mỹ? Hồ Chí Minh
vŕ những người theo ông ta – Việt Minh –
những người đă cộng tác chặt chẽ trong nỗ
lực chống Nhật của Mỹ vŕ Đồng Minh. Việt
Minh cňn cứu cả những phi công Mỹ bị bắn rơi
thuộc Phi Đoŕn 14 của Mỹ. Nhưng những điều
nŕy không đáng kể gě đối với những tęn tŕi
phiệt trong công ty Mafia nằm trong chính
quyền Mỹ. Cái thủ đoạn cổ điển của Mỹ đâm
sau lưng đồng minh của měnh đă đặt điệu cho
cơn ác mộng khủng khiếp ở Đông Nam Á trong
35 năm tới.
Hồ Chí Minh
đă bị cái Công Ty Mafia trong chính quyền Mỹ
phản bội vě họ đơn giản khoác
cho ông ta cái nhăn hiệu “Cộng
sản”.
John Kerry,
Trung Úy Thủy Quân, lŕm chứng trước Ủy Ban
Ngoại Giao của Thượng Viện năm 1971.
“Tôi muốn
nói rằng vŕi tháng trước ở Detroit chúng tôi
có một cuộc điều tra trong đó có 150 quân
nhân đă được giải ngũ trong danh dự đă lŕm
chứng cho những tội ác chiến tranh phạm ở
Đông Nam Á. Họ nói những câu chuyện của thời
đó lŕ chính họ đă hăm hiếp, cắt tai, chặt
đầu, kẹp giây điện từ những bộ máy truyền
tin vŕo nhưng cơ quan sinh dục rồi quay
điện, chặt chân tay, lŕm nổ tan xác, bắn
chơi vŕo các thường dân, triệt hạ cả lŕng
theo kiểu của Thŕnh Cát Tư Hăn, bắn trâu bň,
chó, lŕm trň chơi, đầu độc các kho lương
thực vŕ hầu như lŕ tŕn phá toŕn diện miền
quę Nam Việt Nam, ngoŕi sự tŕn phá thông
thường của chiến tranh vŕ sự tŕn phá thông
thường vŕ đặc biệt của những cuộc bỏ bom
tręn đất nước nŕy.”
Những hŕnh
động tŕn bạo của Quân Đội Mỹ vŕ những kỹ
thuật tra tấn của Lực Lượng Đặc Biệt:
Trong thời
những chính quyền thời Kennedy vŕ Johnson số
quân sát nhân xâm lăng của quân đội Mỹ nhảy
vọt từ 23000 năm 1963 lęn tới 184000 năm
1966. Con số nŕy cao nhất trong năm 1969 mŕ
Nixon lŕm Tổng Thống, với 542000 binh sĩ Mỹ
chiến đấu chống Việt Cộng.
Nhưng đó
không phải lŕ tất cả những gě họ đă lŕm.
Quá nhiều
“con em của chúng ta” đă phạm phải những tội
ác cuồng dâm chống nhân loại. Lính Mỹ tra
tấn tů binh. Lính Mỹ hiếp người qua đường
hậu môn, hăm hiếp vŕ bạo sát đŕn bŕ vŕ con
gái. Lính Mỹ tŕn sát toŕn thể đŕn ông, đŕn
bŕ, trẻ con trong nhiều lŕng – kể cả con nít
- ở nhiều, nhiều nơi như Mỹ Lai vŕ Thạnh
Phong.
[Thạnh Phong lŕ
cái lŕng mŕ Nguyęn Thượng Nghị Sĩ Robert Kerrey
(không phải lŕ John Kerry) đă chỉ huy một toán
SEALS 7 người vŕo tŕn sát 21 người đŕn ông, đŕn
bŕ vŕ trẻ con trong lŕng vŕo tháng 2, 1969. Vŕo
căn nhŕ lá đầu tięn, toán nŕy đă cắt cổ một ông
lăo, vợ ông ta vŕ 3 đứa cháu nhỏ.
["Former US
Senator Robert Kerrey, newly inaugurated as the
president of the New School University, one of
the most prestigious positions in American
academia, has admitted participating in a death
squad attack on a Vietnamese village [Thanh
Phong] 32 years ago, in which he and six
soldiers under his command killed 21 women,
children and elderly men. "In the course of the
nighttime assault, the American raiders [U.S.
Navy SEALS] killed every Vietnamese they
encountered — men, women, children. They used
every weapon in their arsenal, from knives to
rifles and grenades to light anti-tank weapons,
expending more than 1,200 rounds of ammunition
on a village where only a few dozen people
lived. "...the SEALS slit the throats of an
elderly man, his wife and three grandchildren in
the first hut they encountered when they entered
the village. The graves of these five victims,
marked with a common date of death, can be seen
in the village today." TCN]
Tŕi liệu trong
cuốn Rogue State: A Guide to the World’s
Only Superpower của William Blum cho
thấy vŕi chi tiết về chính sách tŕn bạo, diệt
chủng của Mỹ:
Lực
Lượng Đặc Biệt dạy binh sĩ của měnh thi hŕnh
nhiệm vụ ở Việt Nam phải důng tra tấn như
thế nŕo lŕ một phần trong sự thẩm vấn.
Chiến dịch
Phụng Hoŕng nổi tiếng, dựng lęn bởi CIA để
quét sạch hạ tầng cơ sở của Việt Cộng, đă
tra tấn những người bị těnh nghi như sau:
- Quay điện
vŕo các bộ phận sinh dục của nam vŕ nữ.
- Cắm vŕo
tai một cái đũa gỗ dŕi 15 cm rồi đập dần đũa
vŕo óc cho đến khi nạn nhân chết.
- Những
người bị těnh nghi cũng bị ném từ tręn trực
thăng xuống để lŕm gương cho những người
těnh nghi quan trọng khác phải khai, tuy đây
có thể coi như lŕ sát nhân đối với nạn nhân
bị ném, nhưng cũng lŕ một hěnh thức tra tấn
đối với những người khác.
- Vi phạm
Quy Ước Geneva, Mỹ trao tů binh cho đồng
minh Nam Việt Nam của họ biết rő rằng nhưng
người nŕy sẽ bị tra tấn, vięn chức Mỹ thường
có mặt trong cuộc tra tấn.
Cuộc Tŕn
Sát Bắt Đầu Trong Sự Sốt Sắng:
Cương quyết
thi hŕnh dịch vụ diệt chủng, Không Quân Mỹ
phát động chiến dịch “Rolling Thunder” tấn
công dân Việt Nam năm 1964. Rięng cuộc tấn
công nŕy đă thả xuống dất nước nhỏ bé nhiều
bom hơn lŕ toŕn thể số bom důng trong Đệ Nhị
Thế Chiến.
Trong 5 năm
tiếp theo, nhiều trăm ngŕn người dân Việt
Nam, đŕn ông, đŕn bŕ, trẻ con bị nghiền nát
vŕ thięu sống bởi những phi hŕnh đoŕn của
Không Quân Mỹ. Đất nước Việt Nam phải chịu
đựng 22 tấn thuốc nổ cho mỗi 1.6 km vuông.
Nghĩa lŕ 660 kg chất nổ mạnh cho mỗi người,
đŕn ông, đŕn bŕ vŕ trẻ con.
Trong 13
năm chiến tranh ác ôn của Mỹ chống dân tộc
Việt Nam, tổng cộng lŕ 8 triệu tấn bom (bom
Napalm vŕ bom chům) vŕ chất độc khai quang
mŕu Cam đă thả tręn đất nước – vŕ ít ra lŕ 3
triệu người đă bị tŕn sát.
Hầu hết
người Mỹ có lẽ không thể nŕo hiểu nổi điều
nŕy nghĩa lŕ gě.
BA – TRIỆU
– NGƯỜI !
Cůng với lň
nướng thịt thổ dân Mỹ, lň nướng thịt người
Việt Nam của Mỹ đă xếp Mỹ xuống đáy của địa
ngục – cůng với những công ty nổi tiếng như
Nazi của Đức, chính quyền Công Giáo Ustashi
ở Croatia, quân lực Nhật Bản, quân lực Thổ
Nhĩ Kỳ, những đoŕn quân bạo dâm chiến thắng
của Tây Ban Nha, những đoŕn quân Mông Cổ, La
Mă vŕ những con quỷ diệt chủng như tręn.
Không chỉ
những con quỷ Nazi Đức mới phạm tội diệt
chủng. Chính quyền ác ôn vŕ quân lực Mỹ của
chúng ta cũng phạm tội diệt chủng. Hằng
triệu người. Vŕ tuyệt đại đa số nạn nhân lŕ
người dân thường không có ai bảo vệ.
[Vậy mŕ có tęn
chống Cộng ngu đến độ đňi đưa Cộng Sản ra
Tňa Án Xử Tội Phạm Chiến Tranh vě vụ Tết Mậu
Thân ở Huế]
Dân thường
Đŕn Ông . Đŕn Bŕ. Trẻ Con.
Hăy coi câu
chuyện ở Mỹ Lai như lŕ một thí dụ về người
lính Mỹ anh hůng của chúng ta khi hŕnh sự -
tŕn sát trẻ con vŕ hăm hiếp con gái Việt Nam
để lŕm cho thế giới yęn ổn cho những công ty
như Coca Cola vŕ hăng dầu Standard.
Sau cuộc
tŕn sát …bệnh tật vŕ chết thęm:
Nhờ có sự
kỳ thị chủng tộc kięu căng, tự cho lŕ công
chính vŕ không quan tâm của Mỹ mŕ người Việt
Nam tiếp tục bị đau khổ. Năm 1985 người ta
ước tính lŕ một phần ba đất đai [Nam] Việt
Nam bị nhiễm độc, vě Không Quân Mỹ đă důng
thuốc khai quang như Chất Độc Mŕu Cam. Điều
nŕy đă khiến cho Việt Nam nghčo nŕn, đất đai
bị ô nhiễm nặng vŕ có đầy những trái bom
chům chưa nổ - vŕ người dân bị khủng khoảng
tâm lý. 30 năm chiến tranh diệt chủng được
nối tiếp bởi gần 20 năm cấm vận của Mỹ.
[Giáo
sư Noam Chomsky cũng đă châm biếm, cho rằng Mỹ
đă thắng một phần ở Việt Nam (A partial victory)
vě đă thŕnh công để lại cho Việt Nam một di sản
tan hoang đất nước, khó có cơ hội phục hồi về xă
hội vŕ kinh tế… (Nhưng CS đă phục hồi được về xă
hội vŕ kinh tế, vŕ cňn tiến xa hơn trước)]
Trong những
năm từ khi những binh sĩ Mỹ giết người, hăm
hiếp, lực lượng SEALS [Sea, Air and Land
Forces], của Thủy Quân bị đá ra khỏi Việt
Nam một cách ô nhục, cái di sản ác ôn của Mỹ
để lại vẫn tiếp tục có ảnh hưởng đến người
dân. Chất độc Da Cam đă đưa đến nhiều vụ
khuyết tật bẩm sinh trong những thế hệ người
dân Việt Nam vŕ nhiều trăm ngŕn trường hợp
chết về ung thư đă xẩy ra trong những người
sống trong những vůng bị trải thuốc khai
quang..
Những trái
bom chům chưa nổ đă tạo ra những băi měn
không có họa đồ, lŕm cho mọi người sợ hăi
không dám canh tác trong những cánh đồng có
thể trồng trọt được vŕ ruộng lúa. Những trái
bom đó của Mỹ vẫn tiếp tục giết hại, lŕm
chân tay tŕn phế vŕ bị tŕn tật suốt đời cho
nhiều ngŕn trẻ con vŕ người lớn Việt Nam.
(37)
Năm nay, cuốn
“Kill Anything That Moves: The Real American War
In Vietnam” của Nick Turse, mới xuất bản ngŕy 15
tháng 1, 2013, đă đưa ra những hěnh ảnh thực của
quân đội Mỹ đối với người dân Việt Nam vŕ đất
nước Việt Nam. Nick Turse cho chúng ta thấy sự
phát hiện khủng khiếp của ông ta lŕ, sự tŕn sát
ở Mỹ Lai không phải lŕ một việc xẩy ra một cách
đơn độc, mŕ chỉ lŕ một vụ điển hěnh trong nhiều
vụ tŕn sát như vậy, mŕ trong một số vụ những
người bị tŕn sát lŕ trẻ con, người giŕ vŕ phụ
nữ. Trước khi giết, bao giờ cũng lŕ hăm hiếp,
tra tấn nhiều cách khác nhau, mŕ không có một
quân nhân nŕo bị trừng phạt. Trong cuốn sách
mới, “Giết mọi thứ di động”, Nick Turse đă chứng
minh, sau một thập nięn khảo cứu về những điều
khó chấp nhận, lŕ không quân vŕ lục quân Mỹ đă
giết nhiều thường dân ở ngoŕi Bắc vŕ ở trong Nam
như lŕ một chính sách – lặp đi lặp lại, ngŕy nŕy
qua ngŕy khác, tuần nŕy qua tuần khác, tháng nŕy
qua tháng khác, năm nŕy qua năm khác.
Tất cả những tội
ác chiến tranh như tręn của Mỹ ở Việt Nam, mỗi
tội chỉ xảy ra trong một thời gian vŕ không gian
nŕo đó vŕ đă qua. Nhưng cňn một tội ác chiến
tranh khác vẫn cňn di hại ở Việt Nam cho tới
ngŕy nay mŕ không biết bao giờ mới hết. Đó lŕ di
hại của chất độc mŕu da cam [agent orange] důng
trong chiến tranh hóa học của Mỹ ở Việt Nam.
Chúng ta hăy đọc một đoạn trong cuốn Không
Thể Chuộc Lỗi [Failure to Atone] của Bác
sĩ Allen Hassen, trang 271, nội dung lŕ
những “Sự thật chưa từng được tiết lộ của một
bác sĩ těnh nguyện người Mỹ tại Việt Nam”:
Thảm
Kịch Vŕ Di Họa:
Trong suốt một thập kỷ, từ năm 1961 đến năm
1971. Quân đội Mỹ đă tiến hŕnh một cuộc chiến
tranh hóa học lớn nhất trong lịch loŕi người tại
miền Nam Việt Nam. Theo số liệu thống kę, trong
cuộc chiến tranh hóa học nŕy, khoảng 3 triệu
hecta rừng cây vŕ đồng ruộng Việt Nam đă phải
hứng chịu 80 triệu lít chất diệt cỏ vŕ lŕm rụng
lá cây (hay cňn gọi lŕ chất khai quang). Cho đến
ngŕy nay, khi mŕ cuộc chiến tranh đă lůi vŕo dĩ
văng hơn 30 năm, nhưng những “cơn mưa hóa chất”
do những chiếc máy bay Mỹ phun từ tręn trời
xuống vẫn để lại hậu quả nặng nề: cuộc sống của
hŕng triệu người Việt Nam đă, đang vŕ vẫn sẽ cňn
bị âm thầm hủy hoại không biết đến bao giờ!
Về ảnh hưởng của
chất độc da cam, ngŕy nay chúng ta đă có rất
nhiều tŕi liệu. Chính quyền Mỹ đă để ra nhiều
triệu đô-la để đền bů cho những cựu quân nhân Mỹ
bị ảnh hưởng của chất độc da cam. Nhưng Mỹ từ
chối trách nhiệm đối với những nạn nhân người
Việt Nam. Đó lŕ đạo đức của Mỹ. Chúng ta có thể
đọc một số chi tiết trong bŕi:
ĐẠO ĐỨC CHÍNH
QUYỀN MỸ Trong Vấn Nạn CHẤT ĐỘC MŔU DA CAM Vŕ Sự
Vô Sỉ Của Một Số Người Việt Lưu Vong, tręn:
http://www.sachhiem.net/TCN/TCNkh/TCNkh18.php
Quý độc giả cũng
có thể đọc cuốn “Chất Độc Mŕu Da Cam” của
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, Giao Điểm xuất bản năm
2005. Đây lŕ một công trěnh nghięn cứu nghięm
túc của một khoa học gia người Việt ở Úc. Cuốn
sách viết về mức độ tác hại to lớn của chất độc
mŕu da cam tręn đất đai, můa mŕng, môi trường vŕ
con người ở Việt Nam với những dữ kiện khoa học
khó ai có thể phủ bác, nhất lŕ cŕng ngŕy cŕng có
nhiều nghięn cứu về chất độc mŕu da cam trong
thế giới Tây phương mŕ những kết quả nghięn cứu
không những đồng thuận với công cuộc nghięn cứu
của tác giả Nguyễn Văn Tuấn mŕ cňn tiến xa hơn
nữa trong việc khẳng định ảnh hưởng của chất độc
mŕu da cam tręn con người vŕ môi sinh. Nội dung
cuốn sách, ngoŕi việc đưa ra những tác hại của
chất độc mŕu da cam vŕ lęn án chính sách diệt
chủng của Mỹ, chúng ta cňn thấy trong đó tiềm
tŕng lňng yęu dân tộc của tác giả.
Hậu Chiến.
Một tính toán
chính trị sai lầm, đan quyện với một ý đồ đế
quốc thực dân mới (thực dân kinh tế), cộng với
ảo tưởng của “một thị trấn tręn một ngọn đồi”
của những dân “cao-bồi bắn dân Da Đỏ” (cowboys
shooting Indians) trong những phim về Miền Tây
nước Mỹ “Westerns”, đă đưa nước Mỹ vŕo vũng lầy
Việt Nam bất kể lý do, bất kể đạo đức, bất kể
công pháp quốc tế, nhưng rồi phải gánh chịu một
cuộc thảm bại đầu tięn trong quân chính sử nước
Mỹ, sau khi tŕn phá đất nước Việt Nam một cách
man rợ, vô nhân tính. Noam Chomsky đă châm biếm,
cho rằng Mỹ đă thắng một phần ở Việt Nam (A
partial victory) vě đă thŕnh công để lại cho
Việt Nam một di sản tan hoang đất nước, khó có
cơ hội phục hồi về xă hội vŕ kinh tế, cộng với
cuộc cấm vận của Mỹ kéo dŕi trong 19 năm.
Trong cuốn The Political Economy of Human
Rights - Volume II, Noam Chomsky and
Edward S. Herman, South End Press, 1979, hai
tác giả viết:
Mục đích chính
của Mỹ ở Thế Giới Thứ Ba lŕ đảm bảo rằng thế
giới nŕy phải mở cửa để cho sự xâm nhập kinh tế
vŕ kiểm soát chính trị. Không chịu như vậy thě
Mỹ sẽ důng mọi nỗ lực để đảm bảo lŕ những quốc
gia muốn đi theo con đường độc lập tự quyết… thě
sẽ phải gánh chịu những điều kiện khó khăn nhất
mŕ quyền lực của Mỹ có thể áp đặt lęn.
(38)
Giáo sư Loren
Baritz viết chi tiết hơn trong cuốn
“Backfire…”, trang 274:
Sau bao
nhięu điều nói láo, bao nhięu sự tŕn sát,
huyền thoại về “thị trấn tręn một ngọn đồi”
không cňn có thể đưa ra để biện minh cho đạo
đức của Mỹ để can thiệp vŕo Việt Nam. Sau
bao sự thất vọng, sự thử thách về kięn nhẫn,
đức tin vŕo nền văn hóa kỹ thuật đă trở nęn
ít thuyết phục hơn lŕ sự mong muốn giảm sự
tổn thất của chúng ta vŕ tháo chạy. Quân lực
Mỹ không bị đánh bại ở chiến trường; văn hóa
Mỹ bị đánh bại trước những chiến thắng..
Benjamin Franklin dạy chúng ta “thě giờ lŕ
tiền bạc”. Như chúng ta đă tięu phí nhiều
triệu đô-la, họ (Bắc Việt) chịu đựng trong
nhiều năm. Họ đă phải trả một giá cao về
những đời sống. Sự đầu tư của họ đă thŕnh
công.
Trang 341:
Một hậu quả khác của sự důng kỹ thuật một
cách hoang phí lŕ sự thỏa măn khi chúng ta
khám phá ra rằng Cộng sản không thể giải
quyết được những vấn nạn về kinh tế vŕ xă
hội sau khi thắng. Chúng ta đă xử sự để đảm
bảo rằng họ chỉ thắng được một đất nước tan
tŕnh, không cňn một giá trị kinh tế nŕo cňn
tồn tại ở ngoŕi Bắc, với hŕng ngŕn mẫu rừng
chết khô ở miền Nam, cůng với sự lụt lội vŕ
đất đai mất khả năng trồng trọt. Chúng ta để
lại cho họ một mặt đất lỗ chỗ như mặt trăng
với những vũng nước độc, một mảnh đất chết,
vŕ một dân miền Nam đồi bại mŕ Thượng nghị
sĩ Fulbright đă từng nhận định: “Một xă
hội của gái điếm vŕ lính đánh thuę.”
(39) [Fulbright không nghĩ đến nguyęn nhân
từ đâu mŕ xă hội Nam Việt Nam, ít ra lŕ ở
các thŕnh thị, trở thŕnh như vậy. Nếu lŕ
người có đầu óc một chút thě Fulbright không
bao giờ nęn nói như vậy. Vě nguyęn nhân
chính lŕ Mỹ đă nhập cảng những giá trị của
lính tráng Mỹ vŕo Nam Việt Nam. TCN]
Chúng ta hăy đọc
một tŕi liệu của Marilyn Young trong cuốn
The Vietnam Wars (1945-1990), trang 301, về těnh
trạng Việt Nam sau cuộc chiến:
Sau cuộc chiến:
Nhu cầu rất cần viện trợ của Việt Nam ở mức độ
cao nhất: Ở trong Nam, 9000 trong số 15000 thôn
xă, 25 triệu mẫu đất trồng trọt, 12 triệu mẫu
rừng bị phá hủy, vŕ 1.5 triệu gia súc bị giết;
có khoảng 200000 gái điếm, 879000 trẻ mồ côi,
181000 bị tŕn phế, vŕ 1 triệu phụ nữ góa chồng;
tất cả 6 thŕnh phố kỹ nghệ ở ngoŕi Bắc bị hư hại
nhiều, cũng như nhiều tỉnh lỵ khác, vŕ 4000
trong số 5800 phường nông nghiệp. Bắc vŕ Nam,
đất đai bị lỗ chỗ bởi những hố bom vŕ cňn nhiều
bom chưa nổ, cho nęn sau cuộc chiến lâu mŕ các
nông dân vŕ gia đěnh vẫn bị trọng thương khi họ
muốn khai phá trồng trọt lại tręn những cánh
đồng. 75 triệu lít chất diệt trừ sâu bọ đă được
trải tręn miền Nam trong cuộc chiến, vŕ dů ảnh
hưởng lâu dŕi của những chất độc không được rő
vŕo năm 1975, nhiều dị tật bẩm sinh vŕ trụy thai
đă xẩy ra từ sớm.
(40)
Hăy nghĩ tới xă
hội Việt Nam sau cuộc chiến, mọi mặt đều kiệt
quệ đến tận xương tủy, cộng với chính sách cấm
vận trong 19 năm để trả thů của Mỹ (Ấn Độ muốn
viện trợ cho Việt Nam 100 con trâu cũng bị Mỹ
ngăn chận), Trong hoŕn cảnh của cả đất nước như
vậy, những khó khăn trong cuộc sống lŕ điều lŕm
sao tránh được. Số người vượt bięn gia tăng lŕ
chuyện dễ hiểu dů rằng tuyệt đại đa số, dů họ có
ở lại, cũng không thuộc thŕnh phần bị đŕn áp,
trả thů chính trị hay phải đi học tập cải tạo.
Việt Nam không có cây đũa thần, nhưng tôi không
hiểu với ý chí nŕo mŕ Việt Nam vươn lęn được
tới těnh trạng ngŕy nay, phải chăng đó lŕ một
phép lạ. Trong phép lạ nŕy cũng có phần của một
số người Việt hải ngoại, những người không chịu
nghe theo lệnh của bọn người áo đen, bọn bán phở
vŕ viết báo chống Cộng, yęu cầu Mỹ đừng bỏ cấm
vận, hô hŕo dân tỵ nạn đừng gửi tiền về, đừng về
Việt Nam, đừng mua hŕng Việt Nam v..v... Tôi
khuyęn những người Việt ở ngoại quốc nghĩ láo,
nói láo về Việt Nam, hăy về Việt Nam một chuyến
để xem đất nước ngŕy nay mở mang như thế nŕo.
Cňn chuyện suy thoái đạo đức cách mạng hay những
tệ đoan trong xă hội lŕ những chuyện mŕ chúng ta
phải cố gắng giải quyết ngŕy nay, chúng không
lięn quan gě đến bản chất hai cuộc chiến chống
xâm lăng trước vŕ sau Geneva.
Kết Luận.
Giáo sư Baritz
viết một câu hơi khó hiểu: Bắc Việt quan niệm
“Không thua lŕ thắng” nếu họ kięn trě, cňn cấp
lănh đạo Mỹ thě quan niệm “Không thắng lŕ thua”
(Backfire…, p. 275: The North Vietnamese
believed they would win if they did not lose, if
they could hang on. The American war leaders
believed they would lose if they did not win.)
Vŕ Bắc Việt đă kięn trě tranh đấu để cho Mỹ
không thắng. Sau đây tôi sẽ không bŕn về vấn đế
thắng hay thua mŕ thử giải thích tại sao cuộc
chiến lại có một kết cục như vậy.
Tôi muốn giải
thích dựa tręn quan điểm của tôi, một người đă
từng tham dự cuộc chiến vŕ đă sống ở miền Nam
cho đến vŕi ngŕy trước ngŕy 30 tháng 4, 1975, vŕ
dựa tręn những điều tôi biết về các chế độ miền
Nam, nhưng tôi sẽ không đi vŕo những chi tiết mŕ
tôi không muốn nói đến vě dů sao tôi cũng lŕ
người theo phe miền Nam. Tôi cũng sẽ đưa ra một
số quan điểm của người Mỹ về kết cục của cuộc
chiến.
Những yếu tố quyết
định một cuộc chiến giữa hai phe lŕ gě? Theo tôi
thě có bốn: chính nghĩa lŕm động cơ chiến đấu,
khả năng vŕ tư cách của cấp lănh đạo quân chính,
ý chí chiến đấu của binh sĩ, vŕ tất nhięn, lực
lượng quân sự. Về chính nghĩa vŕ khả năng vŕ tư
cách của cấp lănh đạo quân chính thě Giáo sư
Nguyễn Mạnh Quang đă có những bŕi phân tích khá
đầy đủ.
Đọc giả có thể đọc
các bŕi sau đây của GS Quang:
- Quan Niệm Về
Chính Thống Hay Chính Nghĩa Của Người Lęn Cầm
Quyền,
[http://sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=5044];
- Tính cách
thuận lý vŕ nghich lý của một chính quyền [http://sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=7]
;
- Các nhân vật
lănh đạo
[http://giaodiemonline.com/nov/chuong18.htm]
Ở đây, tôi chỉ đưa
ra vŕi nét chính. Về những yếu tố quyết định
nŕy, có những sự thật khá đau lňng đối với người
Việt Quốc Gia. Dů chúng ta có chấp nhận hay
không thě những sự thật lịch sử vẫn lŕ những sự
thật. Chúng ta có thể viết lịch sử theo ý chúng
ta muốn. Nhưng trước những sự thật hiển nhięn mŕ
chúng ta cứ cố těnh xuyęn tạc để nói lęn những
điều không đúng sự thật thě đó chỉ chứng tỏ tư
cách không lương thiện trí thức của chúng ta mŕ
thôi.
Như tręn tôi đă
chứng minh, hai cuộc chiến tiền vŕ hậu Geneva
thực chất lŕ chống xâm lăng, trước lŕ Pháp, sau
lŕ Mỹ.. Cho nęn, Bắc Việt, dů mang cái vỏ Cộng
sản, vận động quần chúng chống xâm lăng thě
chúng ta cũng không thể phủ nhận lŕ họ có chính
nghĩa. Chúng ta không thể nói một cách vô trách
nhiệm: Vě họ lŕ Cộng sản nęn họ không có chính
nghĩa. Về phía Quốc Gia thě bất kể lý tưởng ra
sao, nhưng thực chất đều lŕ nằm dưới quyền của
những thế lực ngoại quốc, với quân đội ngoại
quốc nằm tręn đất nước, mới đầu lŕ Pháp, sau lŕ
Mỹ, cho nęn khó có thể gọi lŕ có chính nghĩa, ít
ra lŕ đối với đa số người dân Việt Nam hai miền.
Cộng hay không lŕ vấn đề nội bộ của Việt Nam,
người ngoŕi đừng có xía vŕo. Người Mỹ có câu
“không phải chuyện của anh” (none of your
business). Nhưng chúng ta đă biết, Mỹ důng
“cường quyền thắng công lý”, cůng tay sai Ngô
Đěnh Diệm phá cuộc Tổng Tuyển Cử năm 1956 quy
định bởi Hiệp Định Geneva.
Về các cấp lănh
đạo hai miền thě khó mŕ có thể so sánh, đối
chiếu. Hầu hết những cấp lănh đạo của Bắc Việt
trong hai cuộc chiến ở Việt Nam lŕ những người
yęu nước, chống Pháp, chống Nhật, vŕo tů ra
khám. Giáo sư Harrison viết trong cuốn The
Endless War, Ibid., trang 20: “Trong 42
người trong Ủy Ban Trung Ương Đảng thě 14 người
bị giết bởi Pháp từ năm 1930, vŕ những người
sống sót đă ngồi tů tổng cộng lŕ 222 năm, trung
běnh mỗi người hơn 7 năm” (Of the Party’s
Central Committee (there were the 42 full
members), 14 had been killed by the French since
1930, and the survivors had spent 222 years in
prison, an average of over 7 year each). Thử đối
chiếu giữa hai khuôn mặt chính trong cuộc chiến
chống Mỹ: Hồ Chí Minh vŕ Ngô Đěnh Diệm.
Bất kể Ngô Đěnh
Diệm có chống Cộng cho Chúa hay tự nhận lŕ một
phán quan Tây Ban Nha để diệt những người mọi rợ
không tin Chúa hay không, nhưng tręn thực tế đối
với đa số người dân Việt thě: một đŕng suốt đời
sống gian khổ, tổ chức, tập họp những người yęu
nước chống Pháp, mong giŕnh lại độc lập vŕ thống
nhất cho đất nước [Cụ Hồ], một đŕng lŕm quan cho
Pháp, bắt người yęu nước chống Pháp tra khảo,
rồi trong khi nước nhŕ sôi bỏng vě chiến tranh,
kháng chiến chống Pháp trở lại Đông Dương thě
nằm yęn vị trong các Trường Dňng Công Giáo ở Mỹ,
Bỉ rồi được Mỹ bốc về lŕm “chí sĩ cứu tinh dân
tộc” [Cụ Diệm].
Tręn đây lŕ các
hěnh ảnh tięu biểu của Cụ Hồ với dân chúng
Vŕ dưới đây lŕ vŕi
hěnh ảnh tięu biểu của ông Diệm.
Cảnh năm 1961,
quân đội VNCH đẩy thuyền đưa Cụ đi thăm nước lụt
vŕ đứng dưới nước để dŕn chŕo Tổng Thống. Ảnh từ
video clip
http://www.youtube.com/watch?v=mqd2ccc5N_o&feature=youtu.be
Hai hěnh ảnh trái
ngược khác: một đŕng thường chỉ mặc chiếc quần
cụt Kaki, chân đi đôi dép, sống thân thiện hňa
měnh với binh sĩ, dân chúng, trẻ em bá vai bá
cổ; một đŕng thě luôn luôn mang bộ âu phục mŕu
trắng, sống quan lięu, xa cách dân chúng, đi đâu
lŕ tiền hô hậu ủng, sợ dân, cảnh sát bắt dân
phải quay mặt đi chỗ khác v…v…
Về các tướng tá
miền Nam thě khỏi nói. Họ lŕ những ai? Thŕnh
tích yęu nước ra sao? Khả năng quân sự vŕ đạo
đức ra sao? Ông Thiệu? Đặng Văn Quang? Ngô Dzu?
Trần Thiện Khięm? v…v… vŕ v…v…Chúng ta không nęn
nhắc đến họ thě hơn.
Tôi cũng không
muốn bŕn đến tác phong, ý chí chiến đấu của Quân
Lực Việt Nam Cộng Hňa. Không phải trong Quân Lực
Việt Nam Cộng Hňa không có người thanh lięm vŕ
có khả năng quân sự, nhưng vŕi con én không thể
lŕm nổi můa xuân. Tôi chỉ kể một điều phản ánh
tâm trạng của một số người khi Mỹ đổ quân vŕo
Việt Nam, khi đó tôi cňn ở trong quân đội. Câu
tôi thường nghe ở nhiều cấp trong quân đội lŕ
“Kệ mẹ nó, để cho nó đánh”. Tôi có thể nói rằng,
phần lớn quân đội VNCH đánh chỉ để tự vệ, lŕ vấn
đề sống cňn. Chẳng có mấy người, kể cả cấp tướng
tá, hăng say chống Cộng vě lý tưởng Quốc Gia,
trừ những người Ca-tô chống Cộng cho Chúa chứ
không phải cho Quốc Gia.
Cuối cůng lŕ một
nghịch lý:
“Miền Nam,
tương đối vượt trội hơn miền Bắc về kinh tế, tổ
chức xă hội, tự do, giáo dục v…v…, có hơn một
triệu quân, một thời cộng với hơn nửa triệu quân
Mỹ, với đầy đủ vũ khí, đạn dược, vŕ có ưu thế
tuyệt đối về máy bay chiến đấu, về B52 để trải
thảm bom từ tręn thượng tầng không khí, xe tăng,
tŕu chiến, vŕ cả thuốc khai quang Agent Orange
để cho Việt Cộng không cňn chỗ ẩn núp v..v..
nhưng tại sao vẫn không thắng nổi đối phương để
rồi Mỹ phải těm cách Việt Nam hóa cuộc
chiến, rồi “tháo chạy”
[từ của Tiến sĩ
Nguyễn Tiến Hưng].
Với số quân cụ, máy bay, vũ khí được cung cấp
ngay trước Thỏa Hiệp Paris 1973, một số lượng mŕ
nếu cung cấp cho Bắc Việt thě họ có thể đánh
Mỹ cho đến hết thế kỷ, mŕ tại sao cuối cůng,
Việt Cộng vẫn “cưỡng chiếm” được miền Nam?
Mỗi người hăy těm
câu trả lời cho chính měnh. Câu trả lời của
rięng tôi lŕ, sự phân tích rất sơ lược về bốn
yếu tố quyết định tręn vŕ những tŕi liệu trong
những phần tręn lŕ những câu trả lời rő rŕng
nhất.
Bây giờ chúng ta
hăy đọc vŕi nhận định của người Mỹ về tại sao Mỹ
không thắng ở Việt Nam vŕ kết quả của cuộc chiến
đă ảnh hưởng đến nước Mỹ như thế nŕo.
Tại sao Mỹ thất
bại ở Việt Nam? David Lamb (UPI reporter 1960’s;
Los Angeles Time’s first peacetime bureau in VN)
đă đưa ra một nhận định khá đúng trong cuốn
Vietnam, Ngŕy Nay (“Vietnam, Now” , Public
Affairs, NY, 2002) trang 91:
Sai lầm lớn của
người Mỹ lŕ không hiểu lịch sử, văn hóa vŕ trạng
thái tâm lý đặc trưng của Việt Nam. Họ quá tin
chắc vŕo sức mạnh quân sự sẽ thắng cuộc chiến,
không bao giờ buồn để ý đến chuyện těm hiểu lŕ
họ chiến đấu với ai... Mỹ đă tới Việt Nam để xây
dựng nhưng rút cuộc lŕ phá hủy. Mỹ tới rừng rú
Việt Nam để chiếm lňng dân, nhưng trong cuộc
chiến lâu dŕi nhất – cuộc chiến đầu tięn mŕ Mỹ
thất trận –đă khám phá ra rằng những dụng cụ
chiến tranh không thể thay thế cho sinh khí của
tinh thần quốc gia.
[của người dân
Việt]. (41)
Một hěnh ảnh điển
hěnh trong cuộc chiến cho chúng ta thấy tại sao
người Mỹ không thể thắng được ở Việt Nam. Tôi
xin dịch một đoạn trong trang 209 của một cựu
quân nhân Mỹ trong cuốn Nhěn Lại Việt Nam:
Những Bŕi Học Từ Một Cuộc Chiến (Vietnam
Reconsidered: Lessons From A War, Edited by
Harrison E, Salisbury, Harper & Row, Publishers,
New York, 1984):
Sau khi được lệnh
tấn công vŕo một lŕng qua một ruộng lúa, một
binh sĩ Mỹ đă tham dự cuộc tấn công viết lại như
sau:
“Trong lŕng chỉ
có vŕi dân lŕng vŕ vŕi gia súc. Một người đŕn bŕ
đang kęu khóc vŕ nguyền rủa chúng tôi khi chúng
tôi đi qua. Tôi không hiểu bŕ ta nói cái gě.
Không phải lŕ những lời khen tặng. Tại sao bŕ ta
lại hét vŕo mặt tôi? Tôi đến từ mười sáu ngŕn
cây số, đi trong mưa, mưa rầm, sức nóng vůng
nhiệt đới, cánh đồng lúa, sông ngňi, lội bůn đến
hông, ngă lęn ngă xuống, bị mọi thứ sâu bọ cắn,
luôn luôn mệt mỏi, bị tięu chảy, sống bằng thức
ăn mŕ tôi không cho cả chó ăn, bị bắn, phục
kích, bị ném lựu đạn v..v.. để giải thoát bŕ ta
– mŕ bŕ ta đang đứng kia nhổ vŕo mặt tôi vŕ
nguyền rủa tôi?
Một tiếng nói
thě thầm trong óc tôi. Nó nói rằng: “Nŕy, ngươi,
người đŕn bŕ nŕy cóc cần biết lŕ ngươi cao quý
như thế nŕo khi đến từ ngŕn dậm để giải thoát bŕ
ta khỏi Cộng sản; tất cả bŕ ta biết lŕ nhŕ
ngươi, hay lŕ người nŕo đó giống ngươi, vừa mới
đốt nhŕ bŕ ta. Nhŕ ngươi có thể gọi đó chỉ lŕ
cái nhŕ tranh vŕ cười vě nó không có cửa, nhưng
đó lŕ nhŕ của bŕ ta vŕ nó vừa bị đốt cháy, bất
kể lŕ vě những lý do cao quý nŕo. Đó lŕ tại sao
bŕ ta đang nguyền rủa nhŕ ngươi cũng như tổ tięn
ba đời nhŕ ngươi. Vě chính ngươi, chứ không phải
lŕ những người Cộng sản, vừa mới đốt nhŕ bŕ ta
vŕ hủy diệt tất cả những gě đáng quý trong đời
của bŕ ta. Về vấn đề nhŕ không có cửa, bŕ ta
tiến bộ hơn các ngươi nhiều, điều mŕ có thể nhŕ
ngươi không bao giờ biết được. Bŕ ta có một xă
hội mŕ nhŕ không cần đến cửa, đừng nói đến một
lô những khóa cửa, đối với cái xă hội cao quý
của nhŕ ngươi. Đúng vậy, đồ ăn mŕy, nhŕ ngươi
nghĩ rằng nhŕ ngươi quá văn minh đi; nhŕ ngươi
nghĩ rằng nhŕ ngươi đă lŕm nhiều để giúp những
dân nghčo, những dân man rợ ngu dốt nŕy. Có thể
trong một ngŕn năm nữa, nếu xă hội của nhŕ ngươi
cňn tồn tại, nó sẽ tiến hóa đến mức nó có thể
sống không sợ hăi để đến nỗi phải khóa cửa. Vŕ
rồi sau một ngŕn năm nữa, nó sẽ tiến tới độ nhŕ
không cần cửa. Hăy chịu khó để thě giờ nghĩ về
điều đó đi, đồ cứt chim”(42)
George C.
Herring,
trong cuốn America’s Longest War, The United
States and Vietnam, 1950-1975, viết, p.
271:
Việt Nam
cho thấy rő chính sách ngăn chận Cộng sản
tręn thế giới không thể thŕnh công. Mỹ có
một vị thế chưa từng có về sức mạnh quân sự
vŕ ảnh hưởng, vŕ đă đạt được vŕi kết quả
đáng kể ở Âu Châu trước đây. Tuy nhięn, sức
mạnh quân sự của Mỹ lŕ từ sự yếu kém của các
nước khác chứ không phải lŕ sức mạnh nội tại
của Mỹ, vŕ Việt Nam, không cňn nghi ngờ gě
nữa, đă chứng tỏ sức mạnh của Mỹ, bất kề lŕ
lớn lao đến đâu, cũng có giới hạn. Việt Nam
cho thấy rő rŕng lŕ Mỹ không thể duy trě
quan niệm về trật tự thế giới của měnh trước
sự kięn quyết của một kẻ thů yếu kém hơn
nhiều. Cuộc chiến sẽ không đưa đến sự suy
thoái sức mạnh của Mỹ, như một vŕi người cho
rằng như vậy, nhưng đó lŕ triệu chứng của
những giới hạn về sức mạnh quốc gia của Mỹ
trong thời đại nguyęn tử vŕ những sự khác
biệt tręn thế giới.
Chủ đích
cuộc can thiệp của Mỹ vŕo Việt Nam không
phải để đảm bảo một cuộc sống tốt đẹp hơn
cho người Việt Nam. Một số lớn người Việt
Nam không muốn sống dưới dạng chính quyền
Cộng sản. Mặt khác, người Việt Nam cũng
không hồ hởi để ôm vŕo – có thể lŕ ngay cả
không hiểu – lối sống của người Mỹ.
(43)
Mỹ đă thất bại ở
Việt Nam trong những mục đích tham chiến, sau
những chięu bŕi như bảo vệ nền văn minh Ki Tô
Giáo, hay nhân danh thế giới tự do chống Cộng
sản, hay giúp dân Việt Nam để có tự do dân chủ.
Nhưng chúng ta đă biết, tất cả những chięu bŕi
Mỹ đưa ra đều không có giá trị. Kết cục của cuộc
chiến đă khiến cho trước thế giới, Mỹ không cňn
lŕ “một thị trấn tręn một ngọn đồi”. Nhưng không
phải chỉ có vậy. Morris Dickstein viết
trong Gates of Eden: American Culture in the
Sixties, Basic Books, New York, 1977, trang
271:
Ở Việt Nam
chúng ta không chỉ thua một cuộc chiến tranh vŕ
mất đi một tiềm lục địa, chúng ta cũng cňn mất
đi lňng tự tin lan trŕn khắp xă hội rằng vũ khí
vŕ mục tięu của Mỹ bằng cách nŕo đó nối kết với
công lý vŕ đạo đức, không chỉ với sự theo đuổi
quyền lực. Mỹ đă thất bại về quân sự, nhưng “ý
tưởng quốc gia” của Mỹ, huyền thoại về nước Mỹ
mŕ chúng ta ấp ủ, cňn bị một cú lŕm cho tięu tan
hơn…Việt Nam đă tước đi mất một hěnh ảnh về quốc
gia nŕy mŕ chúng ta hết sức cần đến (44)
Paul Potter viết
trong bŕi “Mỹ không có bảo
vệ tự do ở Việt Nam” (The United States is
not defending freedom in Vietnam) trong cuốn “Perspective
on Modern World History: The Vietnam War”,
Greenhaven Press, MI, 2011, p. 114:
Cuộc chiến
tranh không thể tin được ở Việt Nam đă cung
cấp lưỡi dao cạo, cạnh cắt sắc đáng sợ cuối
cůng đă lŕm tổn thương đến dấu vết của ảo
tưởng lŕ đạo đức vŕ dân chủ lŕ những nguyęn
tắc chỉ đạo của chính sách ngoại giao Mỹ. Tự
cho lŕ công chính, nền đạo đức bọc đường hứa
hẹn giúp kinh tế Việt Nam một tỷ đô-la ngay
mŕ lúc chúng ta gửi đến nhiều tỷ để phá hủy
kinh tế vŕ xă hội vŕ đŕn áp chính trị thě
nhanh chóng mất đi quyền năng nŕo đă từng có
để bảo đảm với chúng ta về sự đứng đắn của
chính sách ngoại giao của chúng ta. Chúng ta
cŕng đŕo sâu vŕo thực tế những gě nước nŕy
đang lŕm vŕ hoạch định ở Việt Nam thě chúng
ta cŕng đi đến kết luận của Thượng Nghị Sĩ
Wayne Morse, rằng Mỹ rất có thể lŕ sự đe dọa
lớn nhất cho hňa běnh thế giới ngŕy nay..
Tổng thống
Johnson nói rằng chúng ta đang bảo vệ tự do
ở Việt Nam. Tự do của ai? Không phải lŕ tự
do của người Việt Nam. Hŕnh động đầu tięn
của tęn độc tŕi đầu tięn Mỹ đặt ở Việt Nam,
Ngô Đěnh Diệm, đă bắt đầu khủng bố một cách
có hệ thống mọi đối lập chính trị, Cộng sản
cũng như không Cộng sản..
Mô thức đŕn
áp vŕ phá hủy mŕ chúng ta đă phát triển vŕ
biện minh trong cuộc chiến thě quá rốt ráo
đến 1965 chúng ta chỉ có thể gọi đó lŕ “văn
hóa diệt chủng”. Tôi không chỉ nói về bom
napalm hay chất phá hủy můa mŕng hay tra tấn
đă giáng vô tội vạ lęn đầu các phụ nữ vŕ trẻ
em, những quân nổi giậy hay trung lập, khi
chỉ nghi ngờ lŕ có hoạt động của quân nổi
giậy. Những thứ nŕy đă đủ khủng khiếp ngoŕi
sức tưởng tượng. Nhưng đó chỉ lŕ một phần
trong một mô thức lớn hơn để phá hủy toŕn bộ
cơ cấu xă hội của Việt Nam. Chúng ta đă lŕm
mất gốc rễ người dân khi kéo họ ra khỏi đất
đai của họ để cầm tů họ trong những trại tập
trung (ấp chiến lược). Qua sự cưỡng bách
tňng quân vŕ trực tiếp can thiệp vŕ kiểm
soát chính trị, chúng ta đă phá hủy tục lệ
vŕ truyền thống địa phương, chŕ đạp lęn
những thứ có giá trị đối với người dân về
phẩm cách vŕ mục đích của sự sống.
Lŕm sao mŕ
ai có thể lấy lŕm ngạc nhięn khi thấy một
dân tộc phải gánh chịu cuộc chiến toŕn diện
tiến hŕnh tręn đất nước họ vŕ nền văn hóa
của họ, nęn cŕng ngŕy cŕng có nhiều người
nổi lęn chống lại sự chuyęn chế bạo ngược
đó? Có cách giải quyết nŕo khác? Vậy mŕ sự
đáp ứng của chúng ta trước sự nổi giậy đó lŕ
đŕn áp mạnh mẽ hơn, chống đối tŕn nhẫn hơn
những thể chế xă hội vŕ văn hóa có tác dụng
duy trě phẩm giá con người vŕ ý chí đối
kháng.
Ngay cả
Tổng thống cũng không thể nói lŕ cuộc chiến
tranh nŕy lŕ để bảo vệ sự tự do của người
dân Việt Nam. Có thể khi Tông thống nói về
tự do thě đó lŕ tự do của người Mỹ. Nhưng có
một lô-gíc kỳ cục nŕo có thể nói lŕ sự tự do
của một dân tộc
(Mỹ) chỉ có
thể duy trě được bằng cách nghiền nát sự tự
do của dân tộc khác (Việt Nam).?
(45)
Trong cuốn “The
Endless War”, Ibid., trang 316, Giáo sư
James P. Harrison viết:
Không ai có thể
bŕn căi về những cuộc tranh đấu thắng lợi của
những bậc lănh đạo trong Đảng vŕ Chính Quyền
Việt Nam trong nhiều thập nięn trước năm 1975.
Muốn hiểu những cuộc tranh đấu nŕy, điều cần lŕ
phải bắt đầu từ trước năm 1945, khi mŕ những
người Cộng sản đă nắm được một phần quyền lực ở
Việt Nam. Chỉ nhěn một cách bao quát như vậy mới
mở r cho chúng ta hiểu về sự bền chí vŕ kięn
cường của những người Cộng sản Việt Nam. Từ đó
mới có thể nhěn thấy lŕ những đặc tính đó lŕ sản
phẩm, có thể hầu như lŕ sản phẩm duy nhất, của
một sự hiến thân có gốc rễ trong nền văn hóa
lịch sử của đất nước, trong những khía cạnh tôn
giáo của sự cam kết cách mạng cho tinh thần quốc
gia vŕ chủ nghĩa Marx, vŕ tręn hết lŕ sự tổ chức
của họ mŕ trong 50 năm đă động vięn được sự ủng
hộ của giới trẻ, phụ nữ vŕ các nông dân để lập
lęn những “thŕnh đồng” vŕ “lũy thép” để có thể
chịu đựng được những sự bất lợi lớn lao nhất
trong lịch sử... Dů sao thě, bất kể những gě đă
xẩy ra ở Việt Nam, chúng cũng nhắc nhở cho chúng
ta đó cuộc một chiến cách mạng đáng lưu ý nhất
trong lịch sử..
(46)
Vŕ trong cuốn “The
Limits of Intervention”, Ibid., trang 127,
Thứ Trưởng Bộ Không Lực Hoa Kỳ, Townsend
Hoopes, nhận định:
Lňng khao khát
về quốc gia lŕ mệnh lệnh lịch sử để giải thích
con người Hồ Chí Minh. Những phát biểu về Cộng
sản quốc tế
[của ông Hồ]
đều có
thực, nhưng chỉ lŕ thứ yếu. Duy trě một nền tảng
ủng hộ rộng răi cho cuộc chiến trong nhiều thập
nięn; lŕm thấm nhuần trong những cấp chỉ huy
trong quân đội sự kięn cường, sáng kiến giải
quyết các vấn đề, vŕ sẵn sŕng hi sinh trước
những bất lợi to lớn; nuôi dưỡng sự bền chí
trước những thất bại; tổ chức lại nền kinh tế vŕ
hệ thống phân phối dưới áp lực của những trận
bom Mỹ - nói ngắn gọn, đánh bại một sức mạnh
quân sự nổi tiếng vŕ thách thức quốc gia mạnh
nhất tręn thế giới – những thŕnh đạt như vậy,
nhěn một cách khác quan, sẽ khiến cho ông Hồ đi
vŕo lịch sử như lŕ một lănh tụ kỳ diệu. Nhưng
điểu nŕy chỉ có thể giải thích được trong tinh
thần của chủ nghĩa quốc gia; lý tưởng lŕ một
nhięn liệu không có đủ chất octane.
(Điều nŕy có nghĩa
lŕ lý tưởng Cộng sản không đủ để cho Việt Nam có
được những thŕnh đạt như vậy).
Nhưng chủ nghĩa
quốc gia mới lŕ lực thúc đẩy chính, do đó cuộc
chiến ở Việt Nam không phŕi lŕ cuộc thử thách về
ý chí của hai phe – Hŕ nội vŕ Washington – có
cůng mục đích như nhau. Đối với Bắc Việt, đó
lŕ một cuộc tranh đấu căn bản, một nhiệm vụ bao
trům mọi vấn đề khác, vấn đề sống cňn. Đối
với Mỹ, nó có tính cách ngoại vi, một sự cạnh
tranh cần thiết cho sự chú ý của thế giới vŕ cho
tiềm lực kinh tế vŕ quân sự với nhiều quyền lợi
khác của một cường quốc tręn hoŕn cầu.
(47)
Hậu Kết
Việt Nam kháng
chiến chống Pháp, cũng như chống Mỹ, không phải
để bŕnh trướng chủ nghĩa Cộng Sản của Tŕu vŕ Nga
như nhiều người đă nhěn theo quan điểm thiển cận
của měnh với mục đích chống Cộng.
Việt Nam không có khả năng như vậy, dů muốn.
Thật vậy, tuyệt đại đa số những nhŕ nghięn cứu
về chiến tranh Việt Nam đều công nhận rằng
thuyết Domino của Mỹ lŕ sai, vŕ Việt Nam không
lệ thuộc Nga vŕ Tŕu như người ta thường tưởng.
Đối với Cộng
sản Việt Nam, chủ nghĩa quốc gia lŕ chính yếu,
chủ thuyết Cộng sản lŕ thứ yếu.
Hơn nữa, khối Cộng Sản không phải lŕ thống
nhất, đoŕn kết muôn người như một vŕ lý tưởng
Cộng Sản của những quốc gia bị áp bức dưới chế
độ thực dân mỗi nước một khác vŕ chủ đích áp
dụng lŕ để giải phóng quốc gia. Trong cuộc chiến
30 năm, từ 1945 đến 1975, Việt Nam chỉ ở trong
thế bắt buộc để tự vệ trong mục đích giŕnh độc
lập vŕ thống nhất cho nước nhŕ mŕ tôi tin rằng
tuyệt đại đa số người dân Việt khao khát, lẽ dĩ
nhięn không thể không có sự trợ giúp ở bęn
ngoŕi, từ các nước bạn. Nhiều sử gia đă cho rằng
chính Mỹ đă đẩy ông Hồ Chí Minh hẳn về phía Cộng
Sản, vě ông Hồ Chí Minh không có con đường nŕo
khác để thực hiện hoŕi băo giải phóng đất nước,
giŕnh độc lập vŕ thống nhất cho nước nhŕ. Tręn
běnh diện quốc tế, kết quả cuộc chiến ở Việt Nam
đă góp phần không nhỏ cho sự cáo chung của chủ
nghĩa thực dân tręn thế giới.
Mỹ quęn đi rất
nhanh những tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt
Nam,
như Bác Sĩ Allen Hassan nhận định: “Nước
Mỹ nhớ rất kỹ những gě người khác gây cho họ -
nhưng lại quęn rất nhanh những gě họ đă gây ra
cho người khác…” Mọi chính sách của Mỹ đều
có tính cách lưỡng chuẩn. Mỹ tự cho quyền phán
xét nhân quyền của nước khác nhưng không bao giờ
nhěn đến vấn đề nhân quyền của Mỹ tręn thế giới
vŕ bỏ qua những vi phạm nhân quyền trầm trọng
trong các nước đồng minh của Mỹ. Vě vậy mŕ ngŕy
nay mấy dân biểu cắc ké của Mỹ, thực chất
không có bất cứ một quyền nŕo vŕ không đủ tư
cách, nhưng vẫn xía vŕo chuyện nội bộ Việt Nam
một cách trơ trẽn trịch thượng mŕ không biết xấu
hổ. Mỹ đền bů cho các cựu quân nhân Mỹ bị
nhiễm chất độc mŕu da cam ở Việt Nam nhưng không
thừa nhận tội ác důng chiến tranh hóa học ở Việt
Nam vŕ không có sự đền bů nŕo cho những nạn nhân
của chất độc mŕu da cam người Việt Nam.
Tôi quan niệm
rằng, nếu những tŕi liệu mŕ tôi dẫn chứng trong
bŕi viết nŕy hiện có đầy trong các thư viện của
các trường đại học, trong các thư viện công
cộng, trong các tiệm sách, trong Internet
v...v.., viết bởi các học giả Âu Mỹ, những người
mŕ tôi tin rằng không có lý do gě để bị ảnh
hưởng bởi cuộc xung đột Quốc Cộng ở Việt Nam,
tuy cũng có vŕi tác giả hạng hai vẫn cố těnh
biện hộ cho cuộc can thiệp của Mỹ vŕo Việt nam.
Những tác phẩm nŕy
không tạo thŕnh "vấn đề" đối với người Mỹ thě
không có lý do gě lại có vấn đề đối với những
người Việt di cư. Tuyệt đại đa số những tác
phẩm viết nghięm chỉnh về cuộc chiến ở Việt Nam
đều viết bởi các tác giả có uy tín trong xă hội
như học giả, giáo sư đại học, bộ trưởng, cựu
tướng lănh, chính trị gia v..v.., những người
đặt sự lương thiện trí thức lęn hŕng đầu.
Trường phái gọi lŕ “chính thống” nŕy thường viết
sau khi tham khảo rất nhiều tŕi liệu vŕ dựa tręn
những sự kiện lịch sử, vŕ phân tích sự việc như
chúng lŕ như vậy. Phần lớn những tác phẩm thuộc
loại nŕy viết sau năm 1975, có khi cả nhiều năm
sau. Không có lý những học giả của Mỹ trong các
đại học lớn lại viết về chiến tranh Việt Nam với
mục đích xuyęn tạc sự thật để bôi nhọ quốc gia
của họ. Kết luận của trường phái gọi lŕ “chính
thống” (orthodox) nŕy lŕ: “Cuộc can thiệp
(intervention) hay xâm lăng (invasion) của Mỹ
vŕo Việt Nam lŕ bất chính vŕ lŕ một sự sai lầm
lớn lao.” Điều nŕy đúng hay sai? Những tŕi
liệu trích dẫn trong phần tręn đă có câu trả lời
rő rŕng.
Bŕi viết nŕy không
phải lŕ để chống Mỹ mŕ chỉ đưa ra một số sự thực
về nước Mỹ lięn quan đến vấn đề Mỹ can thiệp vŕo
Việt Nam vŕ những gě Mỹ đă lŕm ở Việt Nam. Nhiều
trí thức Mỹ đă lęn tiếng về những vấn đề nŕy vŕ
ngŕy nay chúng ta không thiếu những tŕi liệu khả
tín.
Có những sự kiện
lịch sử mŕ tôi tin rằng rất ít người dân Mỹ běnh
thường biết đến, khoan nói đến những người Việt
di cư. Quần chúng Mỹ thường ít để tâm đến những
vấn đề nŕy, họ chỉ quan tâm đến đời sống cá nhân
sao cho thoải mái. Những người Mỹ thuộc thế hệ
trước thường không muốn nhắc đến chiến tranh
Việt Nam. Nhưng đối với người Việt thě khác.
Chiến tranh đă
chia rẽ lňng người, thů hận một chiều của những
kẻ chiến bại kéo dŕi, do đó những thông tin
trong bŕi viết nŕy lŕ những thông tin mŕ tôi cho
rằng chúng ta nhěn lại hai cuộc chiến như chúng
thực lŕ như vậy.
“Rồi các ngươi sẽ biết sự thật, vŕ sự thật sẽ
cởi trói cho các ngươi”: đó lŕ một câu trong
Tân Ước. Đầu óc chúng ta thường bị trói chặt
trong thięn kiến, trong thů hận, vě chúng ta
không biết đến sự thật, hay cố chấp bác bỏ những
sự thật không phů hợp với sự hiểu biết hay thięn
kiến của chúng ta. Hi vọng những sự thật trong
bŕi viết nŕy sẽ cởi trói cho chúng ta thoát khỏi
những quan niệm cố chấp một chiều về hai cuộc
chiến ở Việt Nam. Ngŕy 30/4 lại sắp tới, những
người Việt lưu vong ngŕy nay cňn nói đến những
cụm từ “Mất nước” hay “Quốc hận” xin hăy nghĩ
lại, Nước vŕ Quốc của họ lŕ cái gě?
Trần Chung Ngọc
Grayslake, IL.
Ngŕy 15 tháng 2, 2013.