Người dân TP.HCM trong ngày kỷ niệm 35 năm chiến
thắng. Ảnh: V. Dũng
Lại
sắp đến ngày 30-4. Ở hải ngoại chúng ta lại được
rót vào tai những cụm từ như “ngày quốc hận” hay
“ngày mất nước”, và “Tháng Tư Đen”. Lẽ dĩ nhiên, ai
muốn gọi ngày 30/4/75 là “ngày quốc hận” hay “ngày
mất nước” là quyền của họ, chẳng ai có quyền cấm
cản. Nhưng mong rằng những người này cũng đừng cấm
cản những người khác gọi ngày 30/4 bằng những cụm từ
khác, tùy theo quan niệm của họ, thí dụ như: “ngày
nước nhà thống nhất” hay “ngày của bên thắng cuộc”,
hay “ngày tháo chạy” hay “ngày VNCH sụp đổ”, hay
“ngày đầu hàng” v..v… và v…v… Gọi như vậy có được
không, ai bảo không được, và tại sao không, xin mời
lên tiếng.
Có một điều chúng ta
cần biết, là ở hải ngoại có rất nhiều tổ chức hoặc
hội đoàn, chống Cộng hay không, nhưng không có tổ
chức hay hội đoàn nào có tư cách đại diện, nhân
danh, và có quyền nói thay cho cả “cộng đồng mấy
triệu người Việt ở hải ngoại”, trong đó phần lớn là
lớp trẻ sinh ra ở Mỹ và không biết ǵ về cuộc chiến
ở Việt Nam. V́ không có tư cách đại diện, nên tiếng
nói của các tổ chức, hay hội đoàn ở hải ngoại đều
chỉ là những ư kiến, lập trường, của riêng những tổ
chức, hội đoàn đó, cho nên những người ngoài không
có bổn phận phải nghe theo nếu không đồng ư. Bởi lẽ
đó, không một tổ chức hay hội đoàn nào có thể áp
đặt quan niệm hay lập trường của ḿnh về ngày 30/4
trên toàn thể cộng đồng. Đây là căn bản hiểu
biết về những hoạt động chính trị hay văn hóa trong
những xă hội tự do dân chủ mà quyền tư do tư tưởng,
quyền phát biểu ư kiến, quyền tin và không tin v…v..
là những quyền tuyệt đối. Chỉ có luật pháp quốc gia
là người dân bắt buộc phải tuân hành, dù có biết đến
hay không.
Gọi “Ngày Mất
Nước” Khi "Nước Độc Lập"?
Chúng ta hăy thử phân
tích những cụm từ như “ngày quốc hận” hay “ngày mất
nước” xem chúng có khớp không. Trước hết, điều rơ
ràng là, “quốc hận” chỉ là mối hận của một thiểu số
tiếp tục nuôi dưỡng hoặc đi buôn thù hận, “mất nước”
chỉ là sự mất mát của một thiểu số tiếc nuối một chế
độ không đáng tiếc nuối, và “tháng tư đen” chỉ đen
đối với một thiểu số mà đa số thuộc thế lực đen,
trước một biến cố lịch sử của Việt Nam và của cả thế
giới, ngày 30/4/75. Những cụm từ này không có tính
cách pháp lư, không thể là ư nghĩ chung của mọi
người, kể cả đa số những người tỵ nạn Cộng sản trước
đây và con cháu của họ. Do đó không ai có quyền bắt
mọi người trong cộng đồng phải gọi ngày 30/4 bằng
những cụm từ mà vài nhóm thiểu số dùng. Theo lô-gíc
th́ mang cái “hận”, cái “mất” của một thiểu số, cá
nhân cũng như tổ chức, để áp đặt lên cả nước qua
những cụm từ như “Quốc hận” hay “Mất nước” là việc
làm của những kẻ ngu si vô trí.
Chúng ta hăy đọc thêm
vài định nghĩa của một số người về ngày 30/4 trên
Internet:
“Ngày quốc hận là
ngày của cộng đồng người Việt”; “Ngày Quốc
hận là ngày của toàn dân miền Nam”; “Ngày
Quốc Hận 30/4 là Ngày Mất Đất Nước, nói rơ
hơn là Ngày Mất Nước Việt Nam Cộng Ḥa”;
“Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là quốc tang và quốc
hận”; “Ngày Quốc Hận là Quốc Hận”, “ngày 30-4 là
ngày đau buồn của dân VN”.
Toàn là những lời mê
sảng ngu đần của những kẻ thiếu oxy trong óc. Họ có
quyền ngu, nhưng nếu đă là ngu th́ vĩnh viễn vẫn là
ngu. Họ có quyền nói láo, nhưng điều nói láo vĩnh
viễn vẫn chỉ là điều nói láo.
Bây giờ chúng ta thử
dùng một chút lô-gíc để luận chơi về những cụm từ
như “quốc hận” và “mất nước”. Trước hết, những
người muốn gọi ngày 30/4 là “ngày quốc hận” hay
“ngày mất nước” phải ư thức được rơ ràng thế nào là
một “quốc”, một “nước”, và xác định “quốc” đây là
quốc nào, “nước” đây là nước nào. Lẽ dĩ nhiên ai
cũng hiểu là họ muốn nói đến miền Nam trước đây.
Nhưng những từ “quốc” và “nước” này có thể áp dụng
cho miền Nam Việt Nam không. Người nào bảo được xin
mời lên tiếng.
Đối với tôi, và tôi
tin chắc là đối với đa số người dân Việt Nam, th́
miền Nam không phải là một quốc gia riêng biệt của
một sắc dân khác, dù rằng trong đó có 10% tự nhận là
con dân của nước trời, nhưng trên thực tế chẳng có
ai muốn về trời sớm để sống với Chúa ở trên trời.
Miền Nam là một phần đất của Việt Nam do công ơn
Nam tiến mở mang đất nước của tổ tiên trong quá khứ.
Chuyện Mỹ dùng cường quyền thắng công lư dựng lên
một chế độ tay sai (client state), con đẻ
(offspring) của Mỹ, không thi hành Hiệp Định Geneva
và tự cho miền Nam là miền riêng biệt chỉ có tính
cách tạm thời trong mục đích chính trị của Mỹ. [Xin
đọc chi tiết trong Phần II của bài “Nh́n Lại Hai
Cuộc Chiến Ở Việt Nam” sẽ đăng nay mai].
Sau khi Mỹ tháo chạy
và miền Nam sụp đổ, nước nhà thống nhất, th́ Nam Bắc
đă thành một khối, không c̣n sự phân biệt như trong
thời chiến, th́ tính cách tạm thời do Mỹ dựng lên đă
không c̣n. Đây là một sự kiện lịch sử bất khả phủ
bác, có chấp nhận hay không th́ cũng không thể thay
đổi được ǵ.
Nên biết, Hiệp Định
Geneva cũng như Thỏa Hiệp Paris đều coi toàn thể
nước Việt Nam là một, không làm ǵ có nước Nam Việt
Nam, hay nước Việt Nam Cộng Ḥa. Câu đầu tiên trong
Thỏa Hiệp Paris là:
Điều 1.
Mỹ và mọi nước khác tôn trọng nền độc lập, chủ
quyền, sự thống nhất, và sự toàn vẹn lănh
thổ của Việt Nam như đă được công nhận bởi Hiệp
Định Geneva 1954 về Việt Nam.
[Article 1: The
United States and all other countries respect the
independence, sovereignty, unity, and territorial
integrity of Viet-Nam as recognized by the 1954
Geneva Agreements on Viet- Nam.]
Hiệp định Geneva
không hề chia cắt đất nước làm hai miền riêng biệt
Bắc và Nam.
Vĩ tuyến 17 chỉ là một phân định tạm thời để hai
bên, Pháp và Việt Minh, rút quân và người dân
được tự do chọn lựa nơi ḿnh muốn sinh sống, chờ
ngày Tổng Tuyển Cử vào năm 1956 để thống nhất đất
nước bằng giải pháp chính trị. Trong bản Tuyên Ngôn
Đơn Phương (Unilateral Declaration) của Mỹ về Hội
Nghị Genève, Mỹ không bao giờ nói đến “Nam” hay
“Bắc” mà chỉ nói đến một nước Việt Nam (Kahin,
George McTurnan & John W. Lewis, The United
States in Vietnam: An Analysis in Depth Of The
History of America’s Involvement in Vietnam:
Nowhere in its unilateral declaration did the US
speak of a “South” or “North” Vietnam. Every
reference of the American representative was to a
SINGLE VIETNAM.). Vậy th́ từ đâu mà đẻ ra cái gọi
là Nước Nam Việt Nam riêng biệt. Đó chỉ là đứa con
đẻ của Mỹ, và tàn dư của đứa con đẻ này chỉ là những
nhóm người muốn tiếp tục cuộc thánh chiến chống Cộng
ở hải ngoại. Xin đọc chi tiết về “đứa con đẻ của
chúng ta” (our offspring) trong Phần II của bài
“Nh́n Lại Hai Cuộc Chiến Ở Việt Nam”.
Do đó những người thốt
ra những từ như “Quốc hận” hay “mất nước’ là những
người không ư thức được thế nào là “quốc”, là
“nước”, “quốc” của họ chỉ có trong những cái đầu với
sự hiểu biết rất hạn hẹp về hai cuộc chiến ở Việt
Nam. Họ không đủ lư trí để nhận ra là ḿnh đă dùng
những cụm từ vô nghĩa, tệ hơn nữa họ c̣n muốn lấy
cái hận, cái mất của một thiểu số để mà áp đặt lên
cộng đồng những người Việt mà họ cho rằng tất cả đều
phải là tỵ nạn Cộng sản, hay cho cả nước, và hi vọng
mọi người phải đồng ư với mọi điều họ đưa ra, bất kể
những điều đó ngu xuẩn như thế nào. Họ muốn giữ chặt
mối hận của họ trong đầu và hung hăng chống đối bất
cứ ai mà họ hoang tưởng cho là có mưu đồ xóa bỏ cái
hận của họ, trong khi chẳng có ai quan tâm đến và
phải mất công để mà xóa bỏ những cụm từ mà tự thân
chúng đă vô nghĩa.. Tại sao lại là ngu xuẩn.
Bởi v́, đến ngày nay mà họ vẫn không hiểu được
nguyên nhân cuộc chiến từ đâu mà ra, không hiểu được
chế độ tàn bạo phi dân tộc của người Ca-tô Việt Nam
Ngô Đ́nh Diệm với tinh thần của một quan án Tây Ban
Nha trong thời Trung Cổ, không hiểu được thực chất
của những chế độ quân phiệt sau Diệm, không hiểu
được tâm trạng chán chường chiến tranh của binh sĩ
miền Nam, không hiểu được tại sao miền Nam sụp đổ
v..v.. th́ quả thật là ngu xuẩn.
Phần II của bài “Nh́n
Lại Hai Cuộc Chiến Ở Việt Nam” hi vọng sẽ làm
cho họ hiểu rơ hơn về cuộc chiến ở Việt Nam. Họ sẽ
thấy rằng, họ hận điều không đáng hận, họ mất điều
đáng mất, nhưng họ không biết như vậy, vẫn tiếp tục
nuôi dưỡng một mối hận và muốn mọi người cũng phải
hận theo, khư khư ôm chặt lấy cụm từ “Quốc hận”..
Điều thê thảm là họ không thể mở mắt ra, cho nên
trải qua hơn ba chục năm, mà vẫn không biết là thực
ra ḿnh đang làm cái ǵ, chỉ húc bừa vào những cối
xay gió.
Ông Nguyễn Ngọc
Bích và Nghị Quyết SJR455
Nghe nói ông Nguyễn
Ngọc Bích đă vận động với Quốc Hội tiểu bang
Virginia để thông qua Nghị Quyết SJR455, để kỷ niệm
ngày 30 tháng Tư và gọi đó là ngày “Ngày Nam Việt
Nam”. Những người nuôi thù hận một cách mù
quáng điên cuồng, đọc không thông bản văn của
Nghị Quyết SJR455, hoảng sợ người ta lấy đi cái
hận của họ, đă ào ào chém gió, lên án ông ta là
không có quyền đổi tên ngày “Quốc hận” của họ.
Có thể Quốc Hội Tiểu
Bang Virginia ra quyết nghị qua vận động của một số
người thực chất cũng chẳng có mấy về trí tuệ, và có
thể Quốc Hội cũng chưa nghe đến cụm từ “Ngày Quốc
Hận”, cho nên bảo rằng Nghị Quyết có mục đích đổi
“ngày Quốc hận” thành “Ngày Nam Việt Nam” để mà
chống đối là chống đối ẩu.
Tôi đă đọc toàn văn
bản Nghị Quyết SJR 455 và không hề thấy trong đó có
chỗ nào đề nghị đổi “ngày Quốc hận” thành “ngày Nam
Việt Nam”, mà chỉ thấy có một câu sau một số những
“Xét rằng”: “Quyết định bởi Thượng Viện Virginia,
cùng với Hạ Viện, Rằng Hội Đồng khoáng đại, định
danh hiệu ngày 30 tháng Tư, 2013 và mỗi năm sau đó,
là “Ngày công nhận người Nam Việt Nam ở Virginia”
(RESOLVED by the Senate of Virginia, the House of
Delegates concurring, That the General Assembly
designate April 30, in 2013 and in each succeeding
year, as South Vietnamese Recognition Day in
Virginia).
Ông Nguyễn Ngọc Bích
dịch “South Vietnamese Recognition Day in Virginia”
là “Ngày Nam Việt Nam” là dịch láo. V́ Vietnamese ở
đây không có nghĩa là nước Việt Nam. Xét toàn bản
văn bản Nghị Quyết th́ tất cả là nói đến người Việt
Nam, quân nhân Việt Nam, sự đóng góp của người Việt
Nam ở Mỹ v…v… chỉ có một đoạn nói về miền Nam là
“South Vietnam” chứ không phải là “South
Vietnamese”. “Vietnamese” nếu là tĩnh từ th́ có
nghĩa là “thuộc hay đặc biệt của Việt Nam” thí dụ
như “thức ăn Việt Nam”, “đường phố Việt Nam” v…v…;
nếu là một danh từ th́ có nghĩa là “người Việt
Nam” hay “ngôn ngữ Việt Nam”. Mặt khác, dịch
“South Vietnamese Recognition Day in Virginia” là
“ngày Công nhận Nam Việt Nam ở Virginia” th́ cũng
chẳng có nghĩa ǵ, Nam Việt Nam ở đâu mà công nhận?
Khi Mỹ dựng lên chế độ Ngô Đ́nh Diệm ở miền Nam th́
có nhiều nước trong thế giới tự do đă công nhận chế
độ miền Nam. Ngày nay, “công nhận Nam Việt Nam” là
công nhận một cái ǵ không c̣n hiện hữu, công nhận
một cái đă được công nhận cách đây 58 năm, đúng là
chuyện tiếu lâm.. Cho nên, theo tinh thần bản Quyết
Nghị th́ “South Vietnamese Recognition Day in
Virginia” phải dịch là “Ngày công nhận
người Nam Việt Nam ở Virginia”, cũng có
thể hiểu là “Ngày Virginia công nhận người Nam
Việt Nam”. Dù sao th́ đâu có thể bẻ quẹo “Người
Nam Việt Nam” thành “Nước Nam Việt Nam” được.
Hơn nữa, trên thực tế
làm ǵ có “Quốc Gia Miền Nam” để mà có “Quốc hận”.
Mặt khác, Nghị Quyết của Quốc Hội Tiểu Bang Virginia
là của Virginia, không có giá trị với các tiểu bang
khác, và không bắt buộc toàn thể cộng đồng người
Việt ở hải ngoại phải công nhận Nghị Quyết của Tiểu
Bang Virginia. C̣n nữa, “South Vietnamese
Recognition Day in Virginia” cũng là một cụm từ vô
nghĩa v́ nó rất mơ hồ về căn cước thế nào là
“South Vietnamese”. Cho nên thực ra những người
chống đối ông Nguyễn Ngọc Bích chỉ là những người v́
hoảng sợ vô cớ nên dựng ra một người rơm rồi tự tay
quật nó xuống đất.
Ai muốn hận th́ cứ
việc hận, có ai cấm cản mấy người đâu, nhưng đứng có
nuôi ảo vọng là mọi người khác cũng phải hận theo.
Nếu tôi đọc truyện chưởng Cửu Nguyệt Ưng Phi
của Cổ Long và cảm thấy câu kết “Nếu một người
vẫn không thể quên thù hận, há chẳng ngu xuẩn lắm
sao?” hợp với quan niệm của ḿnh, hoặc được Phật
Giáo dạy “Một niệm sân hận có thể thiêu đốt cả
rừng công đức” th́ làm sao tôi lại phải hận một
cái ǵ mà tôi thấy không có lư do để hận.
Vẫn C̣n Muốn Viết
Về Biến Cố 30/4/75
Trước đây tôi đă viết
vài bài về ngày 30/4/75 (Ba
Mươi Tháng Tư Và Tôi). H́nh như ngày này có cái
ǵ vướng mắc trong đầu, nên đă 38 năm rồi mà nay tôi
vẫn c̣n muốn viết về một biến cố có thể coi là một
mốc trong lịch sử Việt Nam và thế giới. Người ta đă
đưa ra nhiều luận cứ để giải thích và biện minh cho
sự sụp đổ của miền Nam: nào là v́ đồng minh phản bội
(Mỹ có bao giờ coi VNCH là đồng minh?), nào là Việt
Cộng được Nga Tàu cung cấp chiến cụ và vũ khí (thế
miền Nam không được cung cấp nhiều hơn hay sao?),
nào là chúng ta thua v́ miền Nam văn minh hơn, nhân
đạo hơn, giàu có hơn v..v.. miền Bắc.
Đó là những lư luận
hời hợt của những kẻ không có mấy hiểu biết. V́
thiếu hiểu biết nên "mối hận vô căn cứ" cứ day dứt
trong mấy chục năm qua trong một số người có cơ hội
sống trong một nước tự do dân chủ như ở Mỹ mà vẫn
không trưởng thành.
Cần Nhắc Lại Vài
Nét Về Các Chế Độ Ở Miền Nam
Muốn hiểu tại sao miền
Nam lại có một kết cục như vậy, chúng ta cần nhắc
lại vài nét về các chế độ ở miền Nam. Ai cũng biết
là chế độ Ngô Đ́nh Diệm cũng như miền Nam là do Mỹ
dựng lên, không phải là do người dân miền Nam bầu
chọn, hay muốn như vậy. Đa số người dân miền Nam
không biết Ngô Đ́nh Diệm là ai. Về bản chất th́Tổng
Thống của Đệ Nhất Việt Nam Cộng Ḥa, Ngô Đ́nh Diệm,
thuộc một gia đ́nh ba đời làm Việt gian, không phải
là một khuôn mặt yêu nước đối với dân tộc, được Mỹ,
CIA và Vatican đưa về để chống Cộng cho Mỹ và cho
Chúa với tinh thần của một bạo chúa, của một quan án
Tây Ban Nha (Spanish inquisitor).
C̣n về những chế độ
quân phiệt của Đệ Nhị Việt Nam Cộng Ḥa th́ chúng ta
hăy đọc vài lời thú nhận của các vị lănh đạo cao cấp
nhất ở miền Nam:
- Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu :
Mỹ c̣n viện trợ,
th́ chúng tôi c̣n chống cộng . Nếu Hoa Kỳ mà không
viện trợ cho chúng tôi nữa th́ không phải là một
ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ,
chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!
- Nguyễn Văn Ngân, Phụ
Tá Đặc Biệt TT Nguyễn Văn Thiệu:
“Miền
Nam Việt Nam trong cuộc chiến chống cộng sản hoàn
toàn bị phụ thuộc Hoa Kỳ, chúng ta không ở vào vị
thế có thể đặt điều kiện với họ. Quân đội Mỹ muốn
đến là đến, muốn đi là đi…”
- Phó Tổng Thống VNCH
Nguyễn Cao Kỳ:
"ông" Mỹ luôn luôn
đứng ra trước sân khấu, làm "kép nhất". V́
vậy ai cũng cho rằng thực chất đây là cuộc chiến
tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh
thuê.
- Đại tướng Tổng Tham
Mưu Trưởng Quân Lực VNCH Cao Văn Viên:
"Chúng ta không có
trách nhiệm chiến tranh (!) Trách nhiệm chiến đấu là
của người Mỹ. Chính sách đó do Mỹ đề ra, chúng ta
chỉ theo họ mà thôi."
Với những lời thú nhận
như trên, có thể coi miền Nam là một quốc gia độc
lập, có chủ quyền, theo đúng nghĩa của một quốc gia
được không ?
Lời phát biểu của Đại
Tướng Cao Văn Viên phản ánh tâm trạng của nhiều
người trong Quân Lực Việt Nam Cộng khi Mỹ đổ quân
vào. Khi đó tôi c̣n ở trong quân đội, và câu tôi
thường nghe được là: “Kệ mẹ nó. Để cho nó đánh”.
Với tâm trạng như vậy
cho nên thật là dễ hiểu tại sao VNCH sụp đổ chỉ
trong 55 ngày. Ngay trước khi Thỏa Hiệp Paris được
kư kết (27 tháng 1, 1973), miền Nam đă được cung
cấp một số lượng lớn vũ khí và chiến cụ, kể cả máy
bay oanh tạc, đưa lực lượng không quân của miền Nam
lên hàng thứ tư trên thế giới, mà một tướng lănh Mỹ
đă nói đùa là “Nếu chúng ta cho những thứ này
cho Bắc Việt, chúng có thể đánh chúng ta cho đến hết
thế kỷ” (If we had been giving this aid to
the North Vietnamese,” an American general joked,
“they could have fought us for the rest of the
century.”) [Xin đọc Marilyn B. Young trong The
Vietnam Wars: 1945-1990, trang 275].
Tại Sao Chỉ Trong
55 Ngày VNCH Sụp Đổ?
Nhưng tại sao chỉ
trong 55 ngày VNCH sụp đổ? Đó là v́ những vấn nạn
về căn cước quốc gia miền Nam, về chính nghĩa miền
Nam, về thực chất các chế độ miền Nam, về ư chí
chống Cộng của quân nhân miền Nam, và cuối cùng là
binh sĩ miền Nam đă chán chiến tranh cho nên có tâm
cảnh buông xuôi.
Tâm trạng này đă được
nhân sĩ miền Nam Vân Xưa Hồ Sĩ Khuê phân tích
trong một bài dài “Đầu Hàng” [http://sachhiem.net/LICHSU/V/VanXua.php]
trong cuốn “Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm và Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam”. Bài này cũng cho thấy
thực chất của hai nền Cộng Ḥa ở miền Nam: độc tài
phong kiến gia đ́nh trị, tôn giáo trị, tiếp theo là
chế độ quân phiệt của những tướng lănh bất tài tham
nhũng cầm đầu miền Nam, và nhất là chi tiết về những
tướng nào chuồn trước, tướng nào chuồn sau, trước
ngày 30/4.
Sau đây là một đoạn
ngắn, và theo sự hiểu biết của tôi, th́ tác giả đă
viết không khác với những điều tôi biết qua những
năm tôi ở trong quân đội và làm việc ngoài dân sự.
C̣n rất nhiều điều tôi biết về thực chất quân lực
VNCH nhưng v́ tôi là một cựu quân nhân nên tôi không
bao giờ muốn nói ra.
Tâm cảnh chung của
toàn thể đồng bào từ lâu rồi đă
chán chiến tranh v́ thù ghét một chế độ cộng ḥa
giả hiệu, hết phong kiến đến quân phiệt, mà người Mỹ
đă không thương tiếc phương tiện dựng nên, để chống
Cộng bất chấp quần chúng trong nước. Cứ nh́n
quang cảnh, đầu năm 73, lúc bắt đầu thi hành thỏa
hiệp đ́nh chiến cũng rơ. Nói cho thật gọn, mà cũng
thật đúng, quân dân miền Nam không c̣n một
chút tin tưởng nào ở chính quyền do các ông tướng
Thiệu/Kỳ bám chặt, binh sĩ miền Nam không c̣n gắn bó
với quân đội do các ông tướng Khiêm/Viên khống chế.
Tâm cảnh chung là
buông xuôi, là phó mặc, biểu thị sự thờ ơ, t́nh thế
ra sao th́ ra, Cộng Sản có vào cũng thế thôi, chẳng
c̣n chi khác để chọn lựa.
Đó là thực chất của
các chế độ miền Nam, thực chất tâm cảnh của quân dân
miền Nam, không phải là tuyên truyền của Cộng sản.
Điều này giải thích ngày 30 tháng tư tất nhiên phải
đến. Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Tại sao chúng
ta lại hận khi “Lỗi tại ta mọi đàng” (Mea
Culpa). Thực tế là như vậy, người quốc gia như tôi,
có đau ḷng đến đâu cũng không thể phủ nhận sự thật
lịch sử.
Cuộc chiến đă qua lâu
rồi, tại sao chúng ta không thể đối diện với sự thật
mà cứ nghĩ và hành động theo những ảo tưởng của
chúng ta về sự oai hùng của Quân Lực VNCH, sự oai
hùng trên những bộ quân phục thẳng nếp, trên những
huy chương treo đầy ngực, đi diễn hành ở Bolsa v…v…
Góp phần vào những ảo tưởng này, Nghị Quyết SJR455
của Tiểu Bang Virginia có một đống “xét rằng”
(Whereas) để tố Cộng và vinh danh người lính Cộng
Ḥa trong đó có câu: “Xét rằng: Cho đến
tận ngày cuối, binh sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa đă chiến đấu anh dũng, bảo vệ nền tự do của họ
với tài ba, quả cảm và dũng cảm” (Whereas: to
the very end, soldiers of the Army of the Republic
of Vietnam (ARVN) fought valiantly, defending their
freedom with skill, daring, and gallantry.)
Đúng hay sai, có lẽ
chúng ta không cần bàn đến, v́ những diễn biến trong
55 ngày cuối của VNCH với nhiều h́nh ảnh vẫn c̣n đó,
chưa biến đi đâu mất. Vấn đề là qua Nghị Quyết này,
rơ ràng là Quốc Hội Tiểu Bang Virginia rất mù mờ về
cuộc chiến ở Việt Nam nên viết theo những luận điệu
tuyên truyền đă lỗi thời và sai sự thật về Cộng sản
và về cuộc chiến. [Xin
đọc bản Nghị Quyết ở cuối bài].
Chẳng có ai có thể phủ
nhận ngày 30/4/1975 là ngày đất nước thống nhất,
chủ quyền trở lại tay người Việt Nam, là ngày
người dân Việt Nam, trừ những người c̣n mang nặng
tinh thần “Nam kỳ quốc” do chính sách chia rẽ ba kỳ
của Pháp gây nên để dễ trị, hoặc những kẻ có tâm
cảnh phi dân tộc hay tiếp tục nuôi dưỡng thù hận,
thù hận v́ thiếu hiểu biết, đều có thể hănh diện
ngẩng mặt nh́n thẳng vào mắt kẻ đối thoại, bất kể là
họ thuộc lớp người nào, ở địa vị nào, thuộc quốc gia
nào. Tại sao, v́ đó là ngày đánh dấu thêm một trang
sử chiến thắng chống xâm lăng oai hùng của nhân dân
Việt Nam.
Khía cạnh tích cực
nhất của ngày 30/4/75 là Việt Nam đă được cả thế
giới biết đến và nh́n Việt Nam dưới một lăng kính
khác. Từ một nước nhỏ, nghèo, chưa phát triển, được
biết đến rất ít trên thế giới trước cuộc chiến, nay
đă là một quốc gia có liên lạc ngoại giao với 178
quốc gia, giao thương với 224 quốc gia trên thế
giới, và là thành viên của các tổ chức Liên Hiệp
Quốc, ASEAN, ASEM, APEC, WTO. Tại sao chúng ta không
thể nh́n vào khía cạnh tích cực này của Việt Nam mà
chỉ chú trọng đến những chuyện nhỏ nhoi trong xă hội
để mà đả phá chính quyền. Có đọc, chỉ một phần nhỏ
số sách đồ sộ viết về Việt Nam mới thấy thế giới, kể
cả Mỹ, đă nghiên cứu hiểu biết về Việt Nam như thế
nào. Nếu Mỹ có sự hiểu biết này từ thập niên 1940
th́ chắc chắn Mỹ đă không lao đầu vào Việt Nam để bị
sa lầy.
Thế Giới Ngưỡng Mộ
Chiến Thắng Của Việt Nam.
Có đi du lịch nhiều
nơi trên thế giới mới thấy chiến thắng của Việt Nam
đă được ngưỡng mộ như thế nào. Nói về Việt Nam,
chẳng có mấy người biết đến Ngô Đ́nh Diệm, nhưng về
Hồ Chí Minh th́ hầu như những người tương đối nhiều
tuổi ai cũng biết. Đă có một tác giả Mỹ ví cuộc
chiến ở Việt Nam như là huyền thoại về David chống
người khổng lồ Goliath. Chỉ có điều khác biệt, cậu
bé David có Gót ở cùng nên có thể dùng một cái ná
bắn chim đánh thắng người khổng lồ Goliath, Thánh
Kinh viết vậy. C̣n Việt Nam th́ chỉ có nguồn cảm
hứng từ Mác-Lênin với ư chí sắt đá chống ngoại xâm
nên không thua cường quốc khổng lồ Mỹ. Mà không thua
tức là thắng, theo quan niệm của Bắc Việt (theo
Marilyn Young trong The Vietnam Wars: 1945-1990).
Wilfred Burchett cũng ví cuộc chiến như là “Châu
chấu và voi” Tại sao (Nam) Việt Nam sụp đổ”
(Grasshoppers and Elephants: Why Vietnam Fell..)
Người Việt có quyền
hănh diện về trận Điện Biên Phủ, về ngày 30/4 không?
David G. Marr, Giáo sư nghiên cứu về Thái B́nh Dương
ở Đại Học Quốc Gia Úc, viết trong Phần Dẫn Nhập của
cuốn “Vietnamese Tradition On Trial 1920-1945”,
trang 1:
Năm 1938: Ít nhất
là 18 triệu người Việt nằm trong ṿng kiềm tỏa của
chỉ có 27000 binh lính thuộc địa. Tuy vậy mà chỉ 16
năm sau, lực lượng thuộc địa tới 450000 quân mà
không thể tránh khỏi cuộc thảm bại về chiến thuật ở
Điện Biên Phủ và bắt buộc phải di tản chiến lược
xuống miền Nam vĩ tuyến 17. Sau cùng, trong những
năm 1965-1975, nhiều tổ hợp của Mỹ, Việt Nam Cộng
Ḥa, Nam Hàn, và các lực lượng quân sự đồng minh
khác, tổng số lên tới 1.2 triệu người cũng bị thảm
bại, và cuối cùng cũng bị đánh bại bởi Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam và Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
(In 1938 at least
eighteen million Vietnamese were being kept in check
by a mere 27,000 colonial troops. Yet a scant
sixteen years later, colonial forces totalling
450,000 were unable to avoid tactical disaster at
Dien Bien Phu and compulsory strategic evacuation
south of the seventeenth parallel. Finally, in the
years 1965-1975, various combinations of American,
Republic of Vietnam, South Korean, and other allied
armed forces totalling up to 1.2 million men were
outfoxed, stalemated, and eventually vanquished by
the National Liberation Front and the People’s Army
of Vietnam.)
Nếu chúng ta lại biết
rằng, khi ông Hồ kêu gọi toàn quốc kháng chiến th́
lực lượng vũ trang nhân dân yếu kém như thế nào,
nhưng ông Vơ Nguyên Giáp đă phát triển từ lực lượng
yếu kém này thành Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
trong ṿng chưa đầy 10 năm để đưa đến thành tích
chiến thắng ở Điện Biên Phủ, và sau đó với thành
tích chiến thắng một đối phương có ưu thế tuyệt đối
về quân sự và kinh tế, để đi đến thống nhất đất
nước, th́ đó có phải là điều đáng để cho chúng ta
suy nghĩ và nh́n CS Việt Nam ngoài cái lăng kính nhỏ
hẹp của hội chứng Quốc – Cộng không?
Nếu chúng ta lại biết
rằng sự bất đồng Quốc–Cộng không thể nào trở thành
cuộc chiến nếu chỉ là chuyện nội bộ của Việt Nam, mà
cuộc chiến xẩy ra là do mưu đồ và sự xếp đặt của các
cường quốc, mới đầu là Pháp, sau là Mỹ, dùng “cường
quyền thắng công lư“ xía vào nội bộ Việt Nam để phục
vụ cho quyền lợi chính trị và kinh tế của chúng, th́
chúng ta sẽ nghĩ sao về cuộc chiến?
Cuộc chiến giữa Quốc
và Cộng, nếu có, có thể coi là nội chiến với ư nghĩa
xung đột giữa hai lư tưởng của hai khối người Việt,
là chuyện nội bộ của Việt Nam, không có ngoại quốc
nhúng tay vào. Vấn đề chúng ta phải t́m hiểu nguyên
nhân của cuộc chiến là từ đâu và tại sao CS lại
có thể thành công thực hiện được mục đích trong cả
hai cuộc chiến? Lẽ dĩ nhiên những thành tích
trên là của toàn dân, nhưng nếu không có sự tổ chức
và lănh đạo của đảng Cộng Sản VN th́ làm sao tự thân
nhân dân có thể đạt được những thành tích như vậy.
Ngày 30/4/1975 cũng
là ngày ḥa b́nh đă đến đất nước Việt Nam,
không c̣n chiến tranh bom đạn chết chóc phi lư và
một thế hệ mới đă có thể bắt tay vào việc xây dựng
đất nước. Bất kể những hô hào chống đối của một thế
lực đă nổi tiếng là phi dân tộc cũng như của một số
người đă sống với những “ảo tưởng” về quá khứ ở miền
Nam, hay những định nghĩa phi lư trí như “Ngày
quốc hận là ngày của cộng đồng người Việt”;
“Ngày Quốc hận là ngày của toàn dân miền Nam”;
“Ngày Quốc Hận 30/4 là Ngày Mất Đất Nước, nói
rơ hơn là Ngày Mất Nước Việt Nam Cộng Ḥa”;
“Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là quốc tang và quốc
hận”; “Ngày Quốc Hận là Quốc Hận”, “ngày 30-4 là
ngày đau buồn của dân VN”, t́nh người
Việt Nam đă tỏ rơ trong sự kiện hàng năm có nhiều
trăm ngàn người Việt tha hương về thăm quê hương,
trong đó không thiếu ǵ các quân nhân trong Quân Lực
VNCH khi xưa, từ cấp Tướng, Tá cho đế các cấp dưới,
mang về cho đất nước nhiều tỷ đô la, nhiều chuyên
gia trong giới trẻ cũng đă góp phần xây dựng đất
nước qua những kiến thức chuyên môn của ḿnh. Rơ
ràng là những lớp người này không hề coi ngày 30/4
là “ngày Quốc hận”. Và không ai có thể phủ nhận là
đất nước càng ngày càng phát triển, vượt xa chế độ
miền Nam trước đây về đủ mọi mặt, kể cả về phương
diện tự do và dân chủ tuy rằng c̣n có ít nhiều giới
hạn để đối phó với những người lợi dụng tôn giáo hay
dựa thế ngoại bang trong mưu toan làm loạn quốc gia,
và đối phó với một số chính trị gia ấu trĩ vọng
ngoại. Chẳng ai có thể phủ nhận là Việt Nam ngày
nay có những tệ đoan xă hội, giáo dục, đạo đức con
người xuống cấp, lạm dụng quyền thế. Nhiều năm
trước, khi vụ đồng Bath của Thái Lan xuống giá, tôi
đă báo động với Nhà Nước là: Cần phải biết rằng,
nếu đi vào con đường hiện đại hóa, mở mang kinh tế,
không có cách nào có thể tránh khỏi những tệ đoan xă
hội, ảnh hưởng của những nền văn hóa ngoại lai, điển
h́nh là nền văn hóa mà các nhà truyền giáo Tây
phương vẫn thường nhập nhằng liên kết với những tiến
bộ của khoa học Tây phương để mà hănh diện gọi là
nền văn minh KiTô Tây phương (Westem Christian
Civilization), và mong Nhà Nước có kế hoạch giảm
thiểu những ảnh hưởng tiêu cực trên xă hội. Nhưng
đây là những vấn nạn cần phải giải quyết qua chính
quyền trung ương và những chính quyền địa phương với
sự đóng góp của người dân quan tâm đến đất nước.
Những tệ đoan xă hội và sự suy thoái đạo đức cách
mạng ngày nay là những vấn nạn thời đại, không liên
hệ ǵ đến vai tṛ và thành tích của đảng Cộng sản
Việt Nam trong hai cuộc chiến. Vấn đề là người trong
nước phải t́m cách giải quyết những vấn nạn thời đại
này. Không thể v́ những vấn nạn thời đại này mà xóa
bỏ công của CS Việt Nam trong công cuộc kháng chiến
và thống nhất đất nước, hay đặt vấn đề một cách ấu
trĩ như Bùi Tín, dựa trên t́nh trạng đất nước trong
thời hậu chiến: “Vậy thống nhất để làm ǵ, thống
nhất mà như vậy sao”.
Ngày 30/4/1975 mở đầu
cho một cuộc di dân vĩ đại chưa từng có trong lịch
sử Việt Nam. Hơn hai triệu người, đi chính thức
cũng như vượt biên, tỵ nạn Cộng sản cũng như tỵ nạn
kinh tế, hiện đang sống ở nước ngoài. Ở ngoại quốc,
người Việt Nam nổi tiếng là cần cù, chịu khó, con em
học hành rất thành đạt và có thể nói là vượt trội
nhiều sắc dân khác đă định cư ở hải ngoại lâu đời.
Đó là những em không cầm cờ vàng đi biểu t́nh, chỉ
chăm lo học hành với sự thúc đẩy của gia đ́nh. Điều
này không có nghĩa là con em Việt Nam ở ngoại quốc
giỏi hơn hay thông minh hơn con em người dân ỡ trong
nước. Ngày nay, có nhiều con em trong nước, trong
đó có con em của những người thuộc chế độ VNCH, có
cơ hội du học nước ngoài, học ở các trường lớn, chắc
chắn chẳng thua kém ai. Tôi có biết vài trường hợp
như vậy. Giới trẻ ở ngoại quốc th́ như vậy nhưng
không thể tổng quát hóa. Trong cộng đồng người Việt
hải ngoại không phải là không có những tệ đoan xă
hội như băng đảng cướp của, giết người, tống tiền
v..v.., hậu quả của sự đua đ̣i vật chất nhưng lại
không có khả năng chuyên môn để kiếm sống; những sự
gian lận công quỹ của một số trí thức vô liêm sỉ
trong các giới bác sĩ, luật sư không phải là không
có; những hành động phi dân chủ, tự do nhân danh
chính dân chủ và tự do của một số người thuộc loại
chống Cộng chết bỏ là chuyện xẩy ra thường xuyên
v..v.. Ở đâu cũng vậy, cũng có những hạng người
không c̣n lương tri, không c̣n liêm sỉ, không c̣n
đạo đức. Tiền bạc, hư danh là những thứ dễ lôi cuốn
con người vào ṿng sử dụng những thủ đoạn để đạt
được mục đích đen tối bất kể liêm sỉ.
Riêng đối với cá nhân
tôi, trước ngày 30/4/1975 mấy ngày là ngày tôi quyết
định ly hương và cho đến bây giờ tôi vẫn không hối
tiếc ǵ về quyết định này. Không được sống trên quê
hương đất tổ, nhưng ngày nay, tôi muốn về thăm quê
hương khi nào cũng được. Và tôi đă thực hiện bốn
chuyến về thăm quê hương trong các năm 1996, 1998,
2007 và 2010, đi từ Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc, và
thấy Nước vẫn c̣n đó, Sài G̣n vẫn c̣n đó, chẳng có
“mất” đi đâu cả. Không gian như thu hẹp lại, cả thế
giới đă mở ra trước mắt, và nhờ “hồng ân” của cụ
Washington, tôi đă có thể đi tham quan nhiều nước
trên bốn lục địa, ngoài Phi Châu.
Cuộc chiến Việt Nam đă
đưa đẩy nhiều người đến những số phận không ai
muốn. Nhưng dù muốn hay không, với bản năng sinh
tồn, con người vẫn phải tiếp tục sống. Đối với
những mất mát về tinh thần và vật chất khi phải xa
quê hương, nói rằng không có sự luyến tiếc chỉ là tự
dối ḷng. Nhưng điều bù đắp hơn hết đối với cá nhân
tôi là tôi có cơ hội đọc rất nhiều sách về chiến
tranh Việt Nam, về Ki Tô Giáo cũng như về Phật
Giáo. Điều này đă khiến tư duy của tôi thay đổi
trên nhiều phương diện.
Sự Mất Mát Được
Đền Bù
Đối với tôi, sự mất
mát trong một giai đoạn đă được đền bù bằng những
món ăn tinh thần mà trước đây tôi không bao giờ nghĩ
tới. Từ 1975, định cư ở Mỹ, tôi mới có cơ hội và
phương tiện để t́m hiểu về Phật Giáo. Tôi cho đó là
một hồng phúc của tổ tiên để lại. Ngoài ra, tôi cũng
c̣n có cơ hội để t́m hiểu thực chất về các tôn giáo
khác, đặc biệt là về Ki Tô Giáo nói chung, Ca-tô
Rô-ma giáo (Roman Catholicism) nói riêng, cũng như
về lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam mà tôi tin
rằng nếu ở lại Việt Nam tôi không thể nào có phương
tiện và cơ hội để có được những sự hiểu biết này.
Đây là những món ăn tinh thần vô giá đối với tôi.
Về chiến tranh Việt
Nam, chúng ta đă thua, hay là không thắng theo quan
niệm của Mỹ (Mỹ quan niệm không thắng là thua), và
một thiểu số muốn tiếp tục cuộc thánh chiến chống
Cộng ở hải ngoại, chống Cộng v́ những mất mát cá
nhân về quyền thế, về tôn giáo, hay tài sản, hay
người thân v..v.., nói chung, với lư do chúng ta là
“nạn nhân của Cộng Sản”. Nhưng trong chúng ta, có ai
đặt câu hỏi: “Thế nạn nhân của Mỹ và của phía
Quốc Gia th́ sao?” Ai có can đảm trả lời
trung thực câu hỏi này. Nên nhớ, chính quyền Ngô
Đ́nh Diệm đă giết khoảng 300000 người vô tội trong
chính sách “tố Cộng”, cộng với những thảm bom trải
từ B52, vùng oanh kích tự do, Bến Tre, chiến dịch
Phụng Hoàng, Agent Orange, Mỹ Lai v..v.. của Mỹ đến
Việt Nam với danh nghĩa bảo vệ dân chủ, tự do, nhân
quyền cho người Việt. Và sự thật là, trong cuộc
chiến, số người chết, bị thương của miền Bắc gấp mấy
lần của miền Nam. Khoan nói đến những sự tàn khốc
của chiến tranh, những người chết và thân nhân gia
đ́nh họ ở phía bên kia có phải là người không, và
những người c̣n sống có đau khổ trước những sự mất
mát to lớn đă đến với họ không? Hơn nữa những
nạn nhân của chiến tranh do ảnh hưởng của chất độc
da cam c̣n kéo dài cho tới ngày nay, vậy họ có quyền
thù hận chúng ta không?
Vậy nếu họ cũng kéo
dài thù hận như chúng ta, th́ sự thù hận này bao giờ
mới chấm dứt, oan oan tương báo. Nhưng trên thực tế,
chúng ta chỉ thấy những thái độ thù hận một chiều,
đúng ra là ngược chiều, từ phía những người quốc gia
vô trí ở hải ngoại. Có vẻ như những người đi buôn
thù hận này nghĩ rằng, những người bên phía CS không
phải là người, không có cha mẹ, vợ chồng con cái,
bạn bè thân thuộc v..v.. nên những mất mát tổn thất
của họ không đáng kể, chỉ có những tổn thất của phía
chúng ta mới đáng để thù hận. Những người chống Cộng
chỉ đưa ra những luận điệu một chiều để chứng minh
chỉ có CS là ác, c̣n QG hay Mỹ th́ không. Họ cố t́nh
lờ đi và không bao giờ nhắc đến những hành động đối
với dân, với kẻ thù, của người lính Quốc Gia cũng
như của người lính Mỹ mà ngày nay chúng ta không
thiếu tài liệu, những tài liệu nghiên cứu của chính
người Mỹ và của các bậc khoa bảng. Nhưng cũng may
là sự thù hận này phần lớn chỉ có một chiều, tập
trung trong một thiểu số ở hải ngoại mà đa số trong
đó thuộc thế lực đen, một thế lực đă nổi tiếng trong
dân gian, mà lịch sử đă ghi rơ, là “mất gốc” và “hễ
đă phi dân tộc th́ thể nào cũng phản dân tộc”, đang
nắm những phương tiện truyền thông ở hải ngoại.
Có một điều khó ai có
thể phủ nhận là cuộc cách mạng 1789 của Pháp, và sự
bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản trong thế kỷ 20,
đă phần nào làm sụp đổ ư thức hệ Ca-tô Rô-ma giáo ở
Âu Châu, hậu quả là t́nh trạng suy thoái thê thảm
của Ki Tô Giáo nói chung ở Âu Châu ngày nay. Có thể
nói, chủ nghĩa Cộng Sản là một toa thuốc đă thành
công chữa vài căn bệnh thời đại đă giáng lên đầu
nhân loại: bệnh nghiện thuốc phiện Thiên Chúa của
Âu Châu mà người dân Âu Châu ngày nay đă cai từ từ,
bệnh tư bản bóc lột giai cấp vô sản của cuộc cách
mạng kỹ nghệ mà nhờ có Marx các xí nghiệp đă sáng
suốt kịp thời cho tổ chức những nghiệp đoàn để bảo
vệ quyền lợi của công nhân, và bệnh thực dân bóc lột
chà đạp những nước nhược tiểu, đă cáo chung sau
chiến thắng Điện Biên Phủ ở Việt Nam.
Việt Nam nên hănh diện
v́ đă đi tiên phong trong sứ mạng giải phóng dân tộc
khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp, một ách nô lệ mà
lịch sử đă ghi rơ, thực dân Pháp không thể áp đặt
lên dân tộc Việt Nam nếu không có những sự hỗ trợ,
hành động tay sai của tổ chức Ca-tô Giáo Rô-ma ở
Việt Nam, như chính giám mục Puginier đă thú nhận.
Cộng Sản Việt Nam đă đóng góp không ít cho sự cáo
chung của chế độ thực dân trên thế giới, đồng thời
đưa thế lực đen ở Việt Nam, một thế lực đă nổi tiếng
là “hễ phi dân tộc th́ thể nào cũng phản bội dân
tộc”, về nguyên vị là một thiểu số lệ thuộc ngoại
bang sống ngoài lề xă hội mà một trí thức Ca-tô đă
nhận định là sống như người ngoại quốc trên chính
đất nước của ḿnh, và mất đi những quyền lợi chỉ có
thể có được nhờ thực dân và 2 chính quyền Ca-tô ở
miền Nam.. Đây là những sự kiện lịch sử không ai có
thể phủ bác bất cứ dưới lư luận ngụy biện nào.
Chống Cộng Khi
Không C̣n Cộng,
Nhưng sau khi đánh
đuổi được thực dân và thống nhất đất nước, chủ
nghĩa Cộng Sản đă không c̣n thích hợp, v́ vậy mà
Việt Nam đă kịp thời chuyển hướng, vượt qua những
khó khăn lúc đầu của t́nh trạng đất nước kiệt quệ
sau cuộc chiến, và sự cấm vận có tính cách trả thù
của Mỹ trong 19 năm, và đưa quốc gia đến t́nh trạng
phát triển về mọi mặt ngày nay.
Trăm nghe không bằng một thấy. Hăy về Việt Nam để
thấy tận mắt đất nước này ngày nay như thế nào. Chỉ
có những con ḅ mộng Tây Ban Nha, đeo thêm cặp kính
màu hồng, nh́n đâu cũng thấy màu đỏ và cắm đầu húc
càn, mới không biết đến những điều này. Tôi đọc đâu
đó có câu “Chỉ những kẻ ngu mới làm tay sai cho
CSVN“. Câu này cần đổi lại cho thích hợp với
thực tế: “Chỉ những kẻ ngu mới chống Cộng khi
không c̣n Cộng“. Ở Việt Nam, ai thấy Cộng ở
đâu, chỉ tôi coi. Nếu đúng là Cộng th́ làm ǵ c̣n
Nguyễn Văn Lư, c̣n các nhà “dân chủ“, c̣n các vụ
biểu t́nh dân oan, c̣n có vụ thắp nến cầu nguyện với
búa, ḱm và xà beng ở Thái Hà.
Trong phần kết của bài
“Nh́n Lại Hai Cuộc Chiến Ở Việt Nam: Phần II“,
tôi có viết: “Rồi các ngươi sẽ biết sự thật, và
sự thật sẽ cởi trói cho các ngươi”: đó là một
câu trong Tân Ước. Chiến tranh đă chia rẽ ḷng
người, thù hận một chiều của một số những kẻ với tâm
cảnh “quốc hận, “mất nước”, “tháng tư đen” kéo dài
liên miên bất tận. Thật tội nghiệp cho họ. Đầu óc
của họ thường bị trói chặt trong thiên kiến, trong
thù hận, v́ họ không biết đến sự thật, hay cố chấp
bác bỏ những sự thật không phù hợp với sự hiểu biết
hay thiên kiến của họ.
Quá khứ đă qua lâu
rồi, Những hiểu biết một chiều của chúng ta về cuộc
chiến 30 năm ở Việt Nam đă tạo nên ḷng thù hận kéo
dài một cách phi lư, cần phải xóa bỏ trước những sự
thật lịch sử. Việt Nam đang nh́n về và tiến tới
tương lai. Tương lai quốc gia ra sao, theo thể chế
nào, là do người trong nước quyết định, làm lịch sử
cho đất nước của họ. Người ở ngoài nước, nếu có
ḷng với quốc gia, chỉ có thể góp ư xây dựng một
cách chân thành, bất vụ lợi, với mục đích mong cho
quốc gia tiến bộ về mọi mặt, song song với thế giới.
Chúng ta chắc hẳn ai
cũng muốn cho nước nhà phát triển và tiến bộ và tự
do dân chủ như những nước tân tiến. Nhưng có mấy
ai thực sự hiểu thế nào là dân chủ, là tự do, là
nhân quyền. Những quyền này không thể tách rời
khỏi trách nhiệm xă hội của người dân. Người dân
phải được giáo dục kỹ về trách nhiệm xă hội trong
những vấn đề như tự do, dân chủ, nhân quyền, trước
khi họ có thể sử dụng những quyền này. Chưa ư thức
được thế nào là trách nhiệm xă hội, th́ sử dụng các
quyền trên một cách vô trách nhiệm chỉ làm loạn xă
hội.
Về “Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền”
Những người chống Cộng
thường viện dẫn bản “Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền” của Liên Hiệp Quốc làm khuôn vàng thước
ngọc để đo vấn đề nhân quyền ở Việt Nam trong khi họ
không hiểu rơ về bản Tuyên Ngôn này.
Tháng 12, 1948, Liên
Hiệp Quốc tung ra Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền, một tài liệu không rơ ràng, không có
tính cách bắt buộc pháp lư (Mary E. Williams,
Human Rights, p. 16: declarations are not
legally binding; Robert W. Lee, The United
Nations Conspiracy, p.101: the UN later adopted
its vague, non-binding Declaration of
Human Rights), nghĩa là các quốc gia không có bổn
phận phải thi hành những điều khoản trong Bản Tuyên
Ngôn Quốc tế Nhân Quyền. Tuy nhiên, Bản Tuyên Ngôn
Nhân Quyền trên thường được Tây phương cưỡng dùng
làm thước đo vấn đề nhân quyền trên toàn thể thế
giới, một chiêu bài thường được sử dụng để đạt được
những mục đích chính trị kinh tế của Tây phương chứ
không phải v́ tự thân nhân quyền, bất kể quan niệm
về nhân quyền trong các nền văn hóa khác nhau. Ảnh
hưởng của các cường quốc Tây phương, dựa trên bản
Tuyên Ngôn, sau này đă đưa đến sự thành h́nh hai
Giao Ước về Nhân Quyền trên thế giới: Giao Ước
Quốc tế Về Quyền Dân Sự và Quyền Chính Trị (The
International Covenant on Civil and Political
Rights), và Giao Ước Quốc Tế về Những Quyền Kinh
Tế, Xă Hội, và Văn Hóa (The International
Covenant on Economic, Social, and Cultural Rights)
vào năm 1966.
Vài điều khoản trong
bản Giao Ước Quốc Tế cho thấy những quyền
của con người luôn luôn đi kèm với trách nhiệm
xă hội trong ṿng pháp luật:
Điều Khoản 18
1. Mọi người đều có
quyền tự do tư tưởng, lương tri và tôn giáo..
2. Sự tự do bày tỏ
tôn giáo hay tín ngưỡng của mọi người có thể chỉ
phải chịu những hạn chế quy định bởi luật pháp và
cần thiết để bảo vệ sự an toàn công cộng, trật tự,
sức khỏe, hay đạo đức hay quyền căn bản và tự do của
người khác.
Article 18
1. Everyone shall
have the right to freedom of thought, conscience
and religion..
2. Freedom to
manifest one’s religion or beliefs may be
subject only to such limitations as are
prescribed by law and are necessary to protect
public safety, order, health, or morals or the
fundamental rights and freedom of others.
Điều Khoản 19:
1. Mọi người đều có
quyền tự do phát biểu ư kiến..
2. Việc thực thi
những quyền quy định trong mục 2 của điều khoản này
đi cùng với những bổn phận và trách nhiệm đặc
biệt. Nó có thể phải chịu một số hạn chế, nhưng
những hạn chế này chỉ có thể do luật pháp đặt ra.
Article 19
1. Everyone shall
have the right to freedom of expression..
2. The exercice
of the rights provided for in Paragraph 2 of
this article carries with its special duties and
responsibilities. It may therefore be subject
to certain restrictions, but these shall only be
such as are provided by law.
Điều khoản 21
1. Công nhận quyền
hội họp trong ḥa b́nh
2. Không hạn chế nào
được đặt trên sự thực thi quyền trên ngoài những
hạn chế được áp đặt để tuân theo luật pháp.
Article 21.
1. The right of
peaceful assembly shall be recognized.
2. No restriction
may be placed on the exercice of this right
other than those imposed in conformity of the
law.
Chúng ta thấy ngay
rằng, mọi quyền của con người, theo tinh thần của
những bản văn trên, đều phải đi kèm với trách nhiệm
xă hội nằm trong ṿng luật pháp của mỗi nước. Nếu
luật pháp của mỗi quốc gia mỗi khác th́ định nghĩa
về nhân quyền của mỗi quốc gia cũng mỗi khác. Không
có lư do ǵ để lấy nền luật pháp của Mỹ hay của bất
cứ nước nào để dựa vào đó mà đo vấn đề nhân quyền
trên toàn thể thế giới.
Ngoài ra, điều khoản
20 trong bản Giao ước “đ̣i hỏi chính quyền phải
ra luật ngăn cấm mọi tuyên truyền cho chiến tranh và
mọi ủng hộ cho sự căm thù quốc gia, sắc dân hay tôn
giáo có tác dụng tạo nên sự khích động cho những vấn
đề kỳ thị, thù nghịch hay bạo lực” (Article 20
of the CP covenant “requires States parties to
prohibit by law any propaganda for war and any
advocacy of national, racial or religious hatred
that constitutes incitement to discrimination,
hostility or violence..).
Với những hiểu biết về
nhân quyền như trên, chúng ta phải nói rằng Việt Nam
ngày nay là một nước hỗn loạn về tự do áp dụng vô ư
thức những quan niệm về tự do, dân chủ và nhân
quyền, nhưng vẫn bị những thế lực thù nghịch xuyên
tạc về vấn đề nhân quyền. Nhưng thử hỏi, trước
những trường hợp như “linh mục Nguyễn Văn Lư” nói
bậy, coi thường luật pháp trong Ṭa”; “thắp nến cầu
nguyện với búa, ḱm và xà beng của một tôn giáo”,
lời tuyên bố của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về những
chuyện làm bậy của các linh mục không trái với “giáo
luật” của Ca-tô giáo, “Tuyên
Ngôn Thuộc Linh” của nhóm Tin Láo v…v… th́ Nhà
Nước có quyền áp dụng Khoản 20 của bản Giao Ước Quốc
Tế không? Nhưng tại sao Nhà Nước lại có thể để cho
những chuyện đó xẩy ra mà không có biện pháp trừng
phạt thích ứng. Phải chăng Nhà Nước phải dè dặt
trước áp lực của các thế lực ngoại quốc như Mỹ, và
những cơ quan truyền thông chuyên xuyên tạc, đánh
phá Việt Nam?
Hi vọng những hiểu
biết này, qua những công cuộc nghiên cứu trí thức,
có thể phần nào đóng góp cho việc t́m hiểu những vấn
đề nhức nhối giữa những khối người Việt có chính
kiến khác nhau về cuộc chiến tranh trên ba mươi năm
trước, và nhất là về ngày 30 tháng Tư, 1975.
Trần
Chung Ngọc
Ngày 18 tháng 4, 2013
13105347D
SENATE JOINT
RESOLUTION NO. 455
Offered February 19, 2013
Designating April 30, in 2013 and in each succeeding
year, as South Vietnamese Recognition Day in
Virginia.
----------
Patron-- Black
----------
Unanimous consent to introduce
----------
Referred to Committee on Rules
----------
WHEREAS, South Vietnamese Americans, a proud,
industrious people, make up the fourth-largest group
of Asian Americans in the United States; and
WHEREAS, a South Vietnamese mass immigration to the
United States began when communist tyranny swept the
former Republic of Vietnam after the fall of Saigon
in 1975; and
WHEREAS, to the very end, soldiers of the Army of
the Republic of Vietnam (ARVN) fought valiantly,
defending their freedom with skill, daring, and
gallantry; the ARVN 3rd Cavalry Regiment, for
example, demonstrated such skill and heroism in
battle that it was awarded the coveted United States
Presidential Unit Citation; and
WHEREAS, nearly 60,000 American fighters died in the
Vietnam War and some 224,000 South Vietnamese troops
also fell defending their nation; and
WHEREAS, although the American sacrifice in Vietnam
was enormous, some of the most bitter combat
including the savage warfare after the United
States' withdrawal was shouldered principally by our
South Vietnamese allies; and
WHEREAS, the 1968 communist Tet Offensive was
designed to crack South Vietnam's will to
resist, instead, South Vietnamese forces fought
ferociously, and not a single unit collapsed or ran;
indeed, even the police fought, turning pistols
against heavily armed enemy regulars; and
WHEREAS, together with American soldiers, sailors,
airmen, and Marines, the ARVN decimated the
indigenous Viet Cong guerrillas, eliminating them as
an effective fighting force for the remainder of the
war; and
WHEREAS, most American units had left Vietnam by
1972, yet South Vietnamese units continued to
perform remarkably well; with limited American help,
they defeated North Vietnam's all-out Easter
Offensive, a massive conventional invasion led by
Soviet T-54 tanks; and
WHEREAS, the Easter Offensive victory helped force
North Vietnam to accept a negotiated end to the war;
and
WHEREAS, sadly, in 1974 the United States withdrew
most military support, including air power, severely
restricting the flow of fuel and munitions to the
ARVN; strangled by a lack of supplies, tanks and
artillery pieces were allotted meager quantities of
ammunition sometimes just a few shells per day and
radios often had no batteries; and
WHEREAS, the strangulation of South Vietnamese
supply lines destroyed morale and decimated combat
power, making it impossible for even the bravest
South Vietnamese troops to effectively defend
against the final invasion by North Vietnamese
soldiers; North Vietnam remained well supplied by
its communist allies in China and the Soviet Union;
and
WHEREAS, everyone with ties to the Americans or the
government of the Republic of Vietnam feared the
threatened communist reprisals; as communist forces
overran the South during the spring of 1975, 125,000
key South Vietnamese personnel were airlifted from
South Vietnam to refugee centers in the United
States; and
WHEREAS, as American troops and embassy staff were
evacuated by waiting aircraft, terrified South
Vietnamese mothers thrust their babies into the
hands of complete strangers, hoping their offspring
might somehow survive the approaching bloodbath; and
WHEREAS, the promised reign of terror quickly
emerged and the South Vietnamese desperately
fled the murderous tyranny of the communists;
roughly two million South Vietnamese fled to escape
North Vietnam's promised "people's paradise"; and
WHEREAS, launching small, crowded sampans, many
South Vietnamese sailed into the vast, treacherous
waters of the South China Sea, where hundreds of
thousands drowned in the escape attempt; the South
Vietnamese continued to flee their county in huge
numbers from 1975 until the mid-1980s; and
WHEREAS, beginning in 1975 and for decades
afterwards, well over one million South
Vietnamese especially former military officers
and government employees were imprisoned in
communist concentration camps; these were
euphemistically called "reeducation camps," where
many thousands of South Vietnamese were "educated"
to their deaths; and
WHEREAS, the communist concentration camps were
characterized by brutal forced labor, political
indoctrination, and deadly assignments like human
mine clearing; there were no formal charges or
trials; and
WHEREAS, the conditions in the camps were so savage
that many surviving inmates estimate that almost a
third of the prisoners of war died while in
captivity; and
WHEREAS, South Vietnamese immigration to the United
States peaked in 1992 when, after decades of
torture, many concentration camp survivors were
finally released and sponsored by their families to
come to this country; and
WHEREAS, after persevering through unimaginable
brutality and suffering, the South Vietnamese
who escaped their homeland demonstrated admirable
talent and intellect; they became an
entrepreneurial, upwardly mobile group, whose
poverty rate rapidly declined after their arrival in
the United States; and
WHEREAS, today, 82 percent of the South Vietnamese
in the United States are native-born or naturalized
citizens, an exceptionally high portion of American
citizenship for any immigrant group; and
WHEREAS, for several decades, South Vietnamese
American patriots have contributed to the United
States with intellect, skill, loyalty, and
determination; many have served proudly in the Armed
Forces of the United States; now, therefore, be it
RESOLVED by the Senate of Virginia, the House of
Delegates concurring, That the General Assembly
designate April 30, in 2013 and in each succeeding
year, as South Vietnamese Recognition Day in
Virginia; and, be it
RESOLVED FURTHER, That the Clerk of the Senate
transmit a copy of this resolution to the National
Congress of Vietnamese Americans so that members of
the organization may be appraised of the sense of
the General Assembly of Virginia in this matter;
and, be it
RESOLVED FINALLY, That the Clerk of the Senate post
the designation of this day on the General
Assembly's website.
Trần Chung Ngọc