QUẾ HIÊN NGUYỄN NỂ
« BẬC KỲ TÀI, VUA QUANG TRUNG NỂ V̀ HỌC THỨC
THƯỜNG GIÓNG NGỰA QUƯ TỚI THĂM »
TS.Phạm Trọng Chánh
ừ
cuối năm 1790 đến 1794. Nguyễn Du về sống tại Thăng
Long ; thời gian này anh Nguyễn Nể đang làm quan
triều Tây Sơn tại Thăng Long. Đó là người anh thân
thương nhất của Nguyễn Du, cùng cha cùng mẹ ; cha
mất lúc Nguyễn Du 10 tuổi, mẹ mất lúc 12 tuổi, các
anh em được ông anh cả Nguyễn Khản nuôi dưỡng. Ông
anh cả Nguyễn Khản trong vụ án Trịnh Tông năm 1780,
bị giam, nhà chúa nể t́nh tha cho không bị giết. Khi
chúa Trịnh Sâm mất năm 13 tháng chín năm Nhâm Dần
1782 thọ 44 tuổi, Trịnh Cán c̣n thơ ấu được phe Quận
Huy, Đặng thị Huệ bế lên làm chúa, quân lính không
phục nổi loạn giết quận Huy, pḥ Trịnh Tông từ nhà
giam lên nối ngôi. Nguyễn Khản thầy dạy Trịnh Tông
trở thành Thượng Thư Bộ Lại kiêm trấn thủ Hưng Hóa
và Thái Nguyên, năm đó Nguyễn Du thi đỗ Tam Trường,
được Nguyễn Khản phong chức Chánh Thủ Hiệu quân Hùng
hậu hiệu, nắm giữ đội quân hùng hậu nhất Thái
Nguyên, cùng thuộc hạ là Nguyễn Đăng Tiến , tước
Quản Vũ Hầu làm quyền Trấn thủ Thái Nguyên, Nguyễn
Quưnh làm Trấn Tả Đội.

Link :
http://nguyentiendien.nguyendu.vn/
Tại Thăng Long Nguyễn Khản cùng em Thái Phi là
Dương Khuông trở thành rường cột của triều đ́nh,
toan thiết lập uy quyền. Nhân có 4 kiêu binh giả
danh nghĩa hiếp đáp một người lái buôn mượn thuyền,
bị đội trưởng phát giác, triều đ́nh đem chém cả bốn.
Tiếp đến kiêu binh rước hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ, đang
bị giam, là con Thái Tử Lê Duy Vỹ bị chúa Trịnh bức
tử, đưa Duy Kỳ lên làm Hoàng Thái Tử. Kiêu binh càng
lộng quyền v́ cho rằng chúa và vua đều do chúng dựng
nên, họ kéo đến cung cua đ̣i ban thưởng, vua sai
đánh cá hồ sen lên làm gỏi thết đăi cả bọn. Trong
lúc kiêu binh đang chè chén, Nguyễn Khản và nhà chúa
bàn và sai Triêm vũ hầu đem quân đến bắt được 7 tên,
triều đ́nh nghị sự đem ra chém.
Vụ này làm bùng lên sự nổi giận của đám kiêu binh.
Nguyễn Khản bị kiêu binh kéo đến đốt phá tiêu tan cả
dinh thự, nhờ có người kiếm khách gốc người Trung
Quốc chống cự, Nguyễn Khản trốn được lên Sơn Tây với
Nguyễn Điều, đang làm Trấn Thủ Sơn Tây. Dương Khuông
và Nguyễn Triêm trốn vào phủ chúa. Chúa Trịnh và
Thái Phi phải ra khóc lóc kêu nài, và xin đem tiền
chuộc mạng cho em Thái Phi là Dương Khuông, mới được
tha. Triêm Vũ hầu Nguyễn Triêm bị kiêu binh giết
chết. Nguyễn Khản và Dương Khuông đều bị băi chức.
Nguyễn Khản toan đem quân các trấn về, nhưng kiêu
binh giam giữ chúa Trịnh nên không làm ǵ được.
Nguyễn Khản bỏ về Hà Tĩnh. Quyền bính về tay đám
kiêu binh, uy quyền vua Lê, chúa Trịnh chẳng c̣n ǵ
cả. Khi Nguyễn Hữu Chỉnh thuộc hạ của Hoàng Đ́nh Bảo
phe quận Huy và Đặng Thị Huệ pḥ vương tử Cán, Quận
Huy bị kiêu binh giết, Chỉnh sang đầu hàng Tây Sơn,
làm tiên phong dẫn quân Tây Sơn Nguyễn Huệ ra Bắc,
quân chúa Trịnh đánh đâu thua đó. Năm 1786, Nguyễn
Khản từ Nghệ An về kinh làm cố vấn cho nhà chúa, bàn
mưu chống cự Tây Sơn, bị bọn kiêu binh họp nhau ồn
ào ầm ỹ, cho rằng Nguyễn Khản đưa giặc đến. Khản
phải cướp đường chạy đi Sơn Tây. Trịnh Tông tế voi
ra chiến đấu, thua trận chạy trốn và bị bắt phải tự
vẫn. Nhà Trịnh sụp đổ, hai ông anh lớn Nguyễn Khản,
Nguyễn Điều gia phả chép bị bệnh mà mất trong hoàn
cảnh này và được an táng tại làng Tiên Điền.
Nguyễn Nể ra làm quan Tây Sơn, chống đỡ sự sụp đổ
của gia đ́nh. Có lẽ chúng ta chưa nghiên cứu kỹ về
Nguyễn Nể và những đóng góp Nguyễn Nể với triều đại
Tây Sơn. Lời Đoàn Nguyễn Tuấn khi sứ thần nhà Thanh
hỏi : Ai là đỉnh cao thi ca nước Nam ? Đoàn
Nguyễn Tuấn trả lời : Là Quế Hiên Nguyễn Nể .
Dưới ng̣i bút Phan Huy Ích : Nguyễn Nể là bậc kỳ
tài, Vua Quang Trung nể v́ học thức, thường gióng
ngựa quư đến thăm .
Vua Quang Trung là người biết trọng nhân tài, trong
lịch sử Việt Nam ít ai sánh bằng. Không ai cười vua
Quang Trung văn viết nôm na, ít học khi viết phê
việc Văn Miếu bị phá, nhưng kính trọng vua Quang
Trung là người biết dùng nhân tài. Vua Quang Trung
dùng Trần Văn Kỷ, Nguyễn Thiếp, Ngô Thời Nhậm, Phan
Huy Ích, Ngô Văn Sở.. chúng ta đă biết, nhưng với
Nguyễn Nể, vua không sai người triệu đến hỏi ư kiến
mà thường gióng ngựa quư tới thăm, chứng tỏ Vua
Quang Trung c̣n trân trọng với Nguyễn Nể, người anh
của Nguyễn Du đến bậc nào.
Anh Nguyễn Nể (1761-1805) con quan Tư Đồ (Tể Tướng)
Nguyễn Nghiễm và bà Trần thị Tần, ông ngoại là Trần
Ôn, hiệu Quyển Lự, làm chức Câu Kê (Kế toán) cho
Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm. Gia phả họ Trần sao
chép năm Thành Thái thứ sáu (1906) làng Hoa
Thiều, Từ Sơn, Bắc Ninh có hai người đỗ đạt là Tiến
Sĩ Trần Ngạn Húc và Tiến Sĩ Trần Phi Nhăn.

Ḍng
họ Nguyễn Tiên Điền
(link:
http://nguyentiendien.nguyendu.vn/ )
Theo gia phả, Nguyễn Nhiệm (có ư kiến cho là
thuộc ḍng dơi Nguyễn Trăi) vị tổ đầu tiên gốc làng
Canh Hoạch, Thanh Oai Hà Tây, sau khi ư đồ phục hưng
nhà Mạc không thành, vào Tiên Điền tạo dựng cơ
nghiệp vào giữa thế kỷ XVI. Nguyễn Nhiệm gắn bó với
dân làng bằng nghề bốc thuốc. Trong trước tác họ
Nguyễn Tiên Điền có hai tác phẩm về y học là Nam
Dương tập yếu kinh nguyên và Từ Âu chân truyền của
Nguyễn Quỳnh. Nguyễn Quỳnh sinh ba người con trai là
Nguyễn Huệ, Nguyễn Nghiễm, và Nguyễn Trọng.
Quan Tư Đồ Nguyễn Nghiễm (1708-1775) tự Hy
Tư, tiểu húy là Thiều, hiệu Nghị Hiên, Hồng Ngư cư
sĩ ; Anh ông là Nguyễn Huệ (1705-1733) tự Tư Hoà,
hiệu Giới Hiên, đỗ Tiến sĩ năm 1733 và mất sau ngày
vinh quy năm 29 tuổi. Em ông là Nguyễn Trọng (
1710-1789) tự Thúc Văn hiệu Nhă Hiên, 1732 đỗ Tứ
Trường Thi Hương, làm Tri huyện Trường Khánh Lạng
Sơn, 1743 thi Hội đỗ Tam Trường thăng Thừa Chánh Sứ
Lạng Sơn. 1771 đổi sang vơ chức Tham Đốc.
Nguyễn Nghiễm, đỗ Tiến Sĩ từng làm Tế Tửu Quốc Tử
Giám sau làm quan đến chức Tư Đồ (Tể Tướng) tước
Xuân Quận Công, ông có 8 người vợ và 21 người con
trong đó có 12 người con trai. Người con cả là
Nguyễn Khản (1734-1786) con bà Đặng Thị Dương quê Hà
Tĩnh. Đỗ Tiến Sĩ năm 1760, làm quan to Tả Thị Lang,
kiêm Hiệp Trấn Sơn Tây rồi Thượng Thư Bộ Lại. Ông là
người phong lưu rất mực thích thơ nôm và đă diễn ca
Chinh Phụ Ngâm (văn bản mới t́m được lại là bản F
trong sách Chinh Phụ Ngâm bị khảo của GS Hoàng Xuân
Hăn). Ông là thầy của Thế Tử Trịnh Tông, và là bạn
câu cá, ngâm thơ, hát xướng được ngồi ngang hàng với
chúa Trịnh Sâm. Ngoài ra ông c̣n có tài kiến trúc,
mọi việc xây dựng từ ḥn non bộ đến cung vua phủ
chúa đều do ông. Chính thất ông là Đặng Thị Vệ
(1736 ?) người nuôi dưỡng anh em Nguyễn Du. Con ông
Nguyễn Công tham gia Sùng Chính Viện của Nguyễn
Thiếp đời Tây Sơn, hai con gái là Nguyễn Thị Bành,
Nguyễn thị Đài lần lượt kết hôn với Nguyễn Huy Tự
(1743-1790). Huy Tự đậu Tứ Trường thi Hương, làm
quan Trấn Thủ Hưng Hóa, tác giả truyện nôm Hoa Tiên.
Nguyễn Huy Tự có con là Nguyễn Huy Phó (1765-1838)
đỗ giải nguyên, con thứ Nguyễn Huy Hổ (1783-1841)
là tác giả Mai Đ́nh Mộng Kư.
Nguyễn Điều
hay Điền hay Cương ( 1736 – 1786), con bà Đặng Thị
Thuyết em bà cả người Hà Tĩnh, đỗ Tứ Trường kỳ thi
Hương năm Kỷ Măo 1759, làm Hiệp Trấn Sơn Tây, sách
Hoàng Lê Nhất Thống Chí đánh giá là người nhiều mưu
kế. Con ông và bà phu nhân họ Bùi, con gái Đoan quận
Công Bùi Thế Đạt là Nguyễn Thiện (1763-1818), tự
Khả Dục, hiệu Thích Hiên, đỗ Tứ Trường năm Quư Măo
1783, có tham gia Sùng Chính Viện thời Tây Sơn ; đời
Gia Long ông ẩn cư ở quê nhà và nhận sắc truyện Hoa
Tiên của Nguyễn Huy Tự. Con thứ Nguyễn Điều là
Nguyễn Hành (1771-1824) hay Đạm tự Tử Kính, hiệu Nam
Thúc, Ngọ Nam, Nhật Nam, là một trong năm người An
Nam ngũ tuyệt. Mất cha năm 15 tuổi, không
thấy Nguyễn Hành ra thi cử thời Gia Long, ông sống
thanh bần khi ở Thăng Long, khi ở quê nhà Hồng Lĩnh,
ông có tham gia soạn Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh
với Ngô Thời Nhậm. Hưởng dương 53 tuổi ông để lại
hai tập thơ Quan Đông Hải và Minh Quyên thi tập.
Nguyễn Nhưng
con bà Hồ Thị Ngạn ở Hà Tĩnh, đậu Tứ Trường năm Quư
Măo 1783ông ở Hà Tĩnh và sống về nghề thuốc. Có con
là Nguyễn Y, tự là Giác Phủ người soạn tục biên gia
phả họ Nguyễn Tiên Điền. Những lầm lẫn trong gia
phả Nguyễn Tiên Điền về Nguyễn Du có lẽ xuất phát từ
đây v́ Nguyễn Y chỉ ở Tiên Điền nên không biết rơ
những sự kiện xăy ra ở Thăng Long, Thái Nguyên cũng
như ở Quỳnh Hải, ở Hoa Thiều, Chu Kiều, Bắc Ninh.
Nguyễn Quưnh
(1761-1791) hiệu Sĩ Hữu, con bà Nguyễn Thị Xuyên,
đậu Tam Trường làm quan Trấn Tả Đội, khởi nghĩa
chống Tây Sơn tại Tư Nông cùng Quản Vũ Hầu Nguyễn
Đăng Tiến, bị chỉ huy Giáo bắt giải về cho Vũ Văn
Nhậm. Nhậm tha chết, cùng Nguyễn Đăng Tiến, Nguyễn
Du đi Vân Nam, đến Liễu Châu lại trở về chống Tây
Sơn tại Tiên Điền, bị Trấn Thủ Tây Sơn là Lê Văn Dụ
bắt giết ; làng Tiên Điền bị làm cỏ.
Nguyễn Trứ
hay Trừ (1760-1809) con bà Nguyễn thị Xuân quê làng
Chu Kiều xă Tiêu Sơn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc
Ninh đậu Tứ Trường khoa Kỷ Hợi, năm 1779, từng làm
tri huyện Siêu Loại, tri phủ Kinh Môn, Nam Sách,
(Hưng Hóa), Theo Lê Quư kỷ sự tr 57 chép : Khi Lê
Chiêu Thống lên ngôi, Nguyễn Trứ được mật dụ nhà
vua sai tuyển phiên mục Hưng Hóa là bọn Đinh Công Hồ
và Đinh Công Trinh dấy quân vào bảo vệ hoàng thành
để ǵn giữ cho nhà vua. Hồ vâng chiếu chỉ điều bát
hết quân các bộ lạc và quân miền sơn cước Sơn Tây,
được đến hơn một vạn người. Trấn Sơn Tây bị rung
động. Chưởng phủ sự Hoàng Phùng Cơ xin với nhà chúa
Trịnh Bồng kéo quân về Sơn Tây để trấn áp bọn Hồ.
Thời loạn lạc ông về quê mẹ làm nghề thuốc. Có con
gái là Nguyễn Thị Uyên nổi tiếng là thầy
thuốc giỏi, được tuyển vào cung vua Gia Long làm ngự
y chữa bệnh cho các cung nữ ; sau bà trở về quê mẹ
huyện Yên Phong Bắc Ninh và mất năm 49 tuổi. Con
trai là Nguyễn Trù làm tri phủ Vĩnh Tường.
Nguyễn Nghi,
hiệu là Chu Kiều, con bà Nguyễn Thị Xuân, làm nghề
thầy thuốc, có con là Nguyễn Toản ( hay Tản), nhà xă
Cẩm Chương, Bắc Ninh, đậu Cử Nhân Khoa Mậu Tư
(1828), đỗ Đồng Tiến Sĩ khoa Nhâm Th́n (1832) đời
Minh Mạng làm quan đến chức Viên ngoại Lang, Nguyễn
Toản học với quan Tế Tửu Phạm Đ́nh Hổ, đỗ Tiến sĩ
được Phạm Đ́nh Hổ tặng hai câu : Thanh thủy luân
khôi, Khoa đồ phát nhẫn (nước xanh đỗ trạng,
khoa đồ vẻ vang). Nguyễn Nghi diễn ca truyện thơ
Quân Trung Đối, 1 116 câu (GS Vơ Thu Tịnh giới thiệu
in lại bản trên tạp chí Luận Đàm Sài G̣n năm
1961-1962 số 4-9, do GS Nghiêm Toản chú thích, nxb
Đông Nam Á Paris ấn hành 1997, sách này lầm lẫn cho
là tác phẩm Quân Trung Đối của Nguyễn Ức, nhưng
Nguyễn Ức không phải là thân sinh của Nguyễn Toản
và cũng không làm nghề thầy thuốc). Từ sau cuộc khởi
nghĩa Nguyễn Quưnh, Tiên Điền bị làm cỏ, chi ở Chu
Kiều hưng thịnh ngày nay c̣n giữ lại nhiều kỷ vật
của Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm.
Ngoài ra có Nguyễn Cảnh không rơ con bà Phan
Thị Diên, hay bà Hoàng Thị Thược là một thầy thuốc
giỏi, gia phả cũng ghi : Ông học rộng, hay thơ
nhưng không ra làm quan, chịu khó sưu tầm các sách y
học.. Ông chế biến rất tài t́nh, nên người ta gọi
thuốc ông là thuốc thánh. Nguyễn Hành gọi là
lương tướng.
Bà Trần Thị Tần (1735-1778) là vợ thứ ba
có 4 người con trai và một người con gái :
- Nguyễn
Trụ
tức Dao (1758-1776) thi Hương đậu Tứ Trường năm Tân
Măo1771, 15 tuổi, được bổ làm Hồng Lô tự thừa. Có
tài thơ văn được Chúa Trịnh khen là Hổ phụ sinh hổ
tử, tiếc thay mất lúc 18 tuổi.
- Nguyễn
Nể
tức Đề (1761-1805) (Nể là kính nể viết dấu hỏi) đậu
Tứ Trường năm Kỷ Hợi 1779.
- Nguyễn
Thị Diên,
có chồng là Tiến Sĩ Vũ Trinh (1769-1828)đỗ Hương
tiến năm 1786. Không rơ Nguyễn Thị Diên là chị hay
em Nguyễn Du, gia phả chép là chị, nếu là chị sanh
khoảng năm 1764 th́ lớn tuổi hơn chồng nhiều quá ?
có lẽ là em th́đúng hơn v́ như thế sanh khoảng năm
1769, 1770.
- Nguyễn
Du
(1766-1820) sinh ngày 23-11 năm Ất Dậu, âm lịch tính
ra dương lịch là ngày 3-1-1766, đậu Tam Trường năm
Quư Măo 1783.
- Nguyễn
Ức
(1767-1823) tập ấm Hoàng Tín Đại Phu, Trung thành
môn vệ úy. Năm 1811 Vua Gia Long vời ra bổ làm Thiêm
sự Bộ Công đời Gia Long tước hầu, kiến trúc sư chỉ
huy vẽ kiểu, sáng chế, tính toán các công tŕnh xây
dựng Kinh thành Huế thời Gia Long , Minh Mạng ; có
con là Nguyễn Thắng.
* * *
Nguyễn Nể tự là Tiến Phủ, hiệu Quế Hiên , thi đậu
đầu khảo khóa Quốc Tử Giám, đậu đầu thi hạch. Năm
1779 thi Hương đậu Tứ Trường, Nguyễn Nể được bổ vào
Thị Nội Văn thường trực tại nhà học con chúa Trịnh
(Trịnh Tông), sau kiêm Trị thị nội thư tảở Phủ Chúa,
cai quản đội quân Nhất Phẩm. Năm 1783 Nguyễn Điều
thay anh Nguyễn Khản, Thượng Thư Bộ Lại làm Hiệp
Trấn Sơn Tây, Nguyễn Nể phụ tá làm Hiệp tán quân cơ
đạo quân Sơn Tây.
Khi Tây Sơn Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh tôn pḥ nhà
Lê năm 1786, được Vua Lê gả công chúa Ngọc Hân, vua
Lê Hiển Tông băng hà, cháu nội Lê Duy Kỳ nối ngôi
hiệu Chiêu Thống, nhân dịp quân Nam tôn pḥ, vua
Chiêu Thống hăng hái tự gánh lấy việc nhất thống.
Ngoài việc sai các hoàng thân, ai về quê quê ngoại
nấy chiêu tập binh mă, vua c̣n t́m các nho sĩ mời
vào giúp việc cho ḿnh.
Hoàng Lê Nhất Thống Chí, tr. 149 ( link :
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng_L%C3%AA_nh%E1%BA%A5t_th%E1%BB%91ng_ch%C3%AD
) chép : « về mặt quan văn đă thu dùng được Ngô
Vi Quư, Vũ Trinh (1769-1828), Nguyễn Nể. Vua Lê ngày
đêm cùng họ trù tính mọi công việc, ngay cả những
mưu kế phải dùng đến trong lúc bối rối bất ngờ, cũng
được lo toan chu đáo ». Sau đó không c̣n thấy
dấu vết Nguyễn Nể. Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí chép
mâu thuẩn giữa Ngô Vi Quư âm mưu giết Nguyễn Hữu
Chỉnh và Vũ Trinh can gián âm mưu này với vua Lê. Vũ
Trinh tiếp tục là một vị quan đắc lực cho triều vua
Chiêu Thống. Khi Tôn Sĩ Nghị sang nước ta Vũ Trinh
là Chánh Sứ phụ trách mọi công việc bang giao với
Tôn Sĩ Nghị. Suốt triều Tây Sơn, (1789-1801) Vũ
Trinh lánh thân ở Hồ Sơn vùng Hà Nam ngày nay, dạy
học và soạn sách. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, Vũ Trinh
được mời ra tham chính, nhận chức Thị Trung Học sĩ
được thăng Hữu Tham Tri Bộ H́nh năm 1807 làm Chánh
Sứ cùng Ngô Nhân Tĩnh đi sứ nhà Thanh. Năm 1816 ông
có ư bênh vực cho học tṛông là Nguyễn Văn Thuyên,
con Tổng Trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày đi Quảng
Nam 12 năm, đến năm 1828 mới được ân xá, trở về quê
vài ngày th́ bị bệnh mất hưởng dương 59 tuổi.

Vua Quang Trung,
link :
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Hu%E1%BB%87
Thời
gian 1788, Tôn Sĩ Nghị sang chiếm nước ta, vua Lê
Chiêu Thống thanh trừng những người cộng tác với nhà
Tây Sơn. Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích nhận chức tước
của vua Quang Trung, bị đục tên khỏi bia Văn Miếu,
truất về làm dân về làng gánh vác sai dịch. Phạm Như
Toại bắt em vua nộp cho Tây Sơn, Nguyễn Bành dẫn
quân đuổi theo vua, bị chém ngang lưng. Nguyễn Quư
Nha, Trần Bá Lăm, Vơ Huy Tấn viết thư mạo xưng giám
quốc Sùng Nhượng Công để mong xin hoăn binh, đều bị
hạ ngục. Nguyễn Nể làm ǵ trong thời gian này, ông
không có trong danh sách những người bị tội, có lẽ
ông về quê mẹ, làng Hoa Thiều, Bắc Ninh. Năm 1789
vua Quang Trung ra Bắc đánh bại Tôn Sĩ Nghi quét
sạch quân Thanh ra khỏi bờ cơi, Nguyễn Nể được vời
ra bổ làm Hàn Lâm Thị Thư và làm Phó Sứ sang Trung
Quốc cầu phong nhà Thanh cho Vua Quang Trung, Vũ Huy
Tấn làm Chánh Sứ, sứ đoàn c̣n có Ngô Vi Quư , Nguyễn
Đ́nh Cử, Nguyễn Quang Hiến.
Trong cuộc đi sứ, vua Càn Long mời dự yến ở Các Tứ
Quang ông làm thơ chúc mừng, vua Càn Long thưởng cho
một tấm đoạn, hai thỏi mực và 3 tập hoa tiên lụa.
Trở về được thăng Đông Các Học Sĩ, Thái tử Tả Thị
Lang, Nghi Thành Hầu, được giao việc cai trị tại Bắc
Hà. Do đó từ năm 1789 cho Nguyễn Nể và Vũ Huy Tấn
là người có trách nhiệm về ngoại giao với nhà Thanh.
Vua Quang Trung mất ngày 29 tháng 7 năm 1792, để
lại sự nghiệp dỡ dang, vua Cảnh Thịnh lên ngôi mới
mười tuổi, mọi việc trong tay người cậu là Bùi Đắc
Tuyên, không đủ bản lĩnh dùng người, các tướng lĩnh
chia phe đánh nhau. Quân sư Trần Văn Kỷ bị đày, Ngô
Thời Nhiệm từ năm 1798 lui về Bích Câu trở thành Hải
Lượng Đại Hoà Thượng, viết Trúc Lâm Tông chỉ Nguyên
Thanh. Phan Huy Ích lui về dạy học tại hồ Kim Âu
. Năm 1794, Nguyễn Nể vào Phú Xuân làm việc tại
Viện Cơ Mật ; ông giao phó tiền bạc cho hai em là
Nguyễn Du và Nguyễn Ức về xây dựng lại từ đường, đền
thờ, cầu Tiên, chùa Trường Ninh làng Tiên Điền bị
Hiệp Trấn Tây Sơn Lê Văn Dụ đốt phá nhân vụ Nguyễn
Quưnh khởi nghĩa. Nguyễn Nể sau đó được phong Tả
phụng Nghi Bộ Binh, hàm Tam phẩm, được cử làm Hiệp
Tán Nhung vụ Quy Nhơn. Năm 1795 được cử làm Chánh Sứ
sang dự lễ vua Càn Long nhường ngôi cho con là vua
Gia Khánh. Nguyễn Nể dâng hai bài thơ ứng chế được
vua Càn Long đích thân mời uống rượu và dự yến Các
Tử Quang. Nguyễn Nể được vua Càn Long khen thơ và
ban thưởng : gấm đoạn, trà sen, gậy tuổi già, ngọc
như ư, tứ bửu. Cháu 24 đời Chu Văn Công tri phủ Tứ
Thành tặng bốn chữ Thiên Môn Tái Đăng (hai lần lên
cổng trời) Trung Hiếu Đại Phu Hoàng Phu Thái tặng
bốn chữ Hồng Sơn Thế Phổ (ḍng dơi nổi tiếng núi
Hồng). Mùa thu 1796 sứ đoàn về nước, hai lần đi sứ
của Nguyễn Nể đều được vẻ vang, vua và triều đ́nh
nhà Thanh kính trọng, trở về được vua Cảnh Thịnh ban
thưởng 40 mẫu ruộng và thăng chức Tả Đồng Nghị Trung
thư sảnh.

Link :
http://www.nguyenphuoctoc.info/news/news.aspx?cat=79&post=435
Khi Nguyễn Ánh chiếm Phú Xuân năm 1802, lên ngôi
lấy hiệu Gia Long, Nguyễn Nể trốn tránh được gọi ra.
Nguyễn Nể dâng sớ được Vua Gia Long ban thưởng và
cho theo ra Bắc làm việc dưới quyền Tổng Trấn Bắc
Thành Nguyễn Văn Thành, (sự việc này các sách thường
lầm lẫn với Nguyễn Du, v́ lúc đó Nguyễn Nể đă có
danh tiếng, nên Vua Gia Long đang cần đến ngoại giao
với nhà Thanh mới mời ra, c̣n Nguyễn Du lúc đó vô
danh, Nguyễn Nể không bị Đặng Trần Thường đem ra
đánh tại Văn Miếu như Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích,
Nguyễn Gia Phan.)
Nguyễn Nể lo việc chỉ dẫn cho sứ đoàn Lê Quang Định,
Trịnh Hoài Đức đi sứ cầu phong năm 1802. nhưng không
thấy ông nhận một chức vụ ǵ. Năm Quí Hợi
1803-1804 sứ đoàn Tề Bồ Sâm nhà Thanh đến phong
vương cho vua Gia Long, được Gia Long tiếp . Nguyễn
Du là người tiếp sứ cùng với Tri phủ Thượng Hồng
Trần Quư Chuyên, tri phủ Thiên Trường là Ngô Nguyễn
Viên cùng tri phủ Tiên Hưng là Trần Lưu đi nghênh
tiếp từ Lạng Sơn. Thơ văn tống tiễn sứ đều do Nguyễn
Du thảo ra. Có lẽ Nguyễn Nể cũng đóng một vai tṛ
cố vấn trong việc phong vương lần đầu tiên này,
nhưng v́ vua Gia Long v́ muốn tránh tiếng hay nghi
kỵ, không muốn dùng người Tây Sơn đă dùng, nên
dùng Nguyễn Du thay cho Nguyễn Nể, và Ngô Thời Vị
thay cho anh là Ngô Thời Nhiệm.
Phan Huy
Thực, Phan Huy Chú thay cha Phan Huy Ích. Phan Huy
Thực, Chánh sứ năm 1817 Phan Huy Chú đi sứ làm Chánh
sứ năm 1825, 1830. Năm 1820, khi Nguyễn Du mất Ngô
Thời Vị được thay làm Chánh Sứ. Năm 1805 nhân có
người thiếp mất, Nguyễn Nể về quê bị tri phủ Trần
Văn Chiêu truy bức, ông uất ức mà mất lúc 44 tuổi.
Khu di tích Nguyễn Du
(link:
http://www.nguyendu.vn/nd.nsf/gioi-thieu-khu-luu-niem/khu-di-tich-nguyen-du.html
)

Các bạn
đồng thời, những ng̣i bút lớn như Phan Huy Ích, Đoàn
Nguyễn Tuấn, Ninh Tốn… ca tụng và quư mến Nguyễn Nể
một bậc kỳ tài, tài đức toàn diện. Ta thử đọc các
bài thơ người đồng thời viết về Nguyễn Nể : Phan Huy
Ích, trong Dụ Am Ngâm Lục tập II nxb KHXH Hà Nội tr
96 -101, Không biết trong sử sách có người nào được
ca tụng hơn thế này không ? Nguyễn Nể được vua Quang
Trung nể v́ học thức thường gióng ngựa quư tới thăm,
được vua trọng vọng nơi cung điện :
Là
bậc kỳ tài của châu Hoan, đạo đức làm rạng rỡ quê tổ
tiên. Là người tiến thủ, tài ba, khí phách, (có lẽ
Phan Huy Ích muốn nói, thời Lê Chiêu Thống theo Tôn
Sĩ Nghị trở về, trả thùông không bị tội, thời Gia
Long lên không trị tội mà c̣n dùng ông) từ trẻ đă tỏ
ra xuất sắc cơ trí ở đời từng trải sớm. Đức độ kiến
thức ngày càng rộng lớn. Khí tiết như thông chịu
đựng sương buốt. Phẩm chất như ngọc bao phen mài
dũa. Bản lĩnh có từ ḷng trung tín. Hành động cử chỉ
đều lỗi lạc. Hiểu nghĩa lư đến tận kẻ tóc chân tơ.
Thoáng câu chuyện tỏ ra người sắc bén. Làm bạn khắp
thế gian, gắn bó như ruột thịt. Nh́n rơ mọi việc
thiên hạ. Nắm vững để vận dụng. Tạo hóa ban phẩm
chất kỳ lạ. Giao cho trách nhiệm thật xứng đáng… Ba
năm cây đàn, thanh kiếm đi khắp đó đây. Khi chén
rượu câu thơ vẫn thường vui vẻ. Đấng trượng phu trên
đường công danh. Giữ chí sao mà đoan trang đúng
mực . Phía Nam biển rộng mênh mang. Đất mới khai
thác của triều thịnh. Quy Nhơn là ấp thang mộc quê
hương vua Quang Trung. Cũng là nơi then chốt cần
bậc anh tài. Dân vừa được vỗ về yên ổn. Uy danh quân
đội đang lừng lẫy. Khi triều đ́nh cần người đến trấn
giữ bờ cơi, th́ khẳng khái đến nơi hổ trướng cầm
quân. Ḷng hùng khiến mây khói khí độc tan hết,
tiếng thanh cao tỏ rơ ở cây đàn, con hạc. Cửa bể Thị
Nại sóng cuồn cuộn, đỉnh núi Cù Mông mây man mác,
chí bốn phương nay thoả nguyền. mài núi khắc câu thơ
đẹp. Khúc khài ca công lớn tâu lên. Miếng đỉnh chung
ơn trên thấm xuống. Nâng chén rượu tiễn lá cờ người
lên đường, kẻ ở lại ḷng tự thấy thẹn. C̣n có sự ca
tụng nào hơn nhất là dưới một ng̣i bút lừng danh như
Phan Huy Ích từng dịch Chinh Phụ Ngâm Khúc.
Bài Tiễn ông Tả Phụng Nghị Bộ Binh Nghi thành hầu
họ Nguyễn đi thành Quy
Nhơn.
Sông
núi Hoan gấm vóc,
Chung
đúc bậc kỳ nhân.
Rạng
rỡ quê đạo đức,
Điềm
lành sinh phượng lân.
Tiến
thủ biết khí phách.
Từ
trẻ tỏ xuất sắc,
Cơ
trí từng trải đời,
Đức
độ rộng kiến thức.
Khí
tiết như tùng bách,
Phẩm
chất mài như ngọc.
Bản
lĩnh tự tín trung,
Hành
động thường lỗi lạc.
Hiểu
lư tận tóc tơ,
Nói
chuyện người bén sắc.
Làm
bạn khắp thế gian,
Gắn
bó như ruột thịt.
Nh́n
rơ việc thiên hạ,
Nắm
vững để vận hành.
Tạo
hóa tính kỳ lạ,
Giao
trách nhiệm xứng danh.
Gặp
gỡ thánh minh trị;
Đi
thăm gióng ngựa quư.
Học
thức vua nể v́,
Nơi
thanh toả dốc trí.
Ba
năm dạo gươm đàn,
Thơ
rượu thường vui vẻ.
Đấng
trượng phu công danh,
Chí
dũng giữ đúng thể.
Phía
Nam biển mênh mang,
Đất
mới triều khai thác.
Ấp
thang mộc Quy Nhơn,
Anh
tài nơi then chốt.
Dân
vỗ về yên ổn,
Uy
danh quân lẫy lừng,
Triều
đ́nh cần người trấn,
Khẳng
khái đến cầm quân.
Ḷng
hùng khí độc tan,
Thanh
cao tiếng hạc đàn.
Thị
Nại sóng cuồn cuộn,
Cù
Mông mây mác man.
Chí
bốn phương thoả nguyền,
Mài
núi khắc thơ hùng.
Bài
khải ca tấu khúc,
Miếng
đỉnh chung thấm ơn.
Nâng
chén rượu lên đường,
Kẻ ở
ḷng thấy thẹn.
Thơ Phan
Huy Ích, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Tiễn Binh Bộ Tả phụng nghị Nghi thành Nguyễn hầu
phó Quy Nhơn thành
Ngă
Hoan hảo giang sơn,
Chung
bẩm đa kỳ trác.
Thế
đức diệu tiên hương,
Nhân
thụy xuất lân nhạc.
Tiến
phủ băo tài khí,
Diệu
linh kiến đầu giác,
Cơ
thức tảo duyệt thục,
Khí thế du hoành bác.
Tùng tiết nại nghiêm ngưng,
Ngọc chất kinh ma trác.
Bản
lĩnh tự trung tín,
Động
tức thường lỗi lạc.
Chúc
lư cập hào mang
Lập
đàn sinh phong ngọc.
Biến
giao thế gian nhân,
Hệ
thuộc vi tâm lạc.
Nhàn
thị thiên hạ sự,
Vận
dụng tại chưởng ác.
Tạo
hóa dữ kỳ phẩm,
Giáng
nhậm lương bất thác.
Tao
tế thánh minh th́,
Tuân
tư giá hoa lạc.
Vọng
học vu thần cố,
Chu
tuyền thanh tỏa các.
Tam niên cầm kiếm du,
Ngâm chước bất cải lạc.
Trượng phu pho công danh,
Bỉnh
chí há đoan xác.
Hạo
diểu hải chi nam,
Hy
đại tân khai thác.
Quy
Nhơn thang mộc địa,
Khu
hoản ỷ khôi thạc.
Dân
dung sơ phủ tập,
Quân
thanh phương trấn bạc.
Triều
đ́nh trọng hành biên,
Khẳng
khái tựu nhung mạc.
Tráng
tâm tễ yên lam,
Thanh
khiếu đái cầm hạc.
Thị
Nại đào hung dũng,
Cù
Mông vân lạc mạc.
Huyền
hồ thù sơ chí,
Ma nhai lặc giai tác.
Khải ca tấu kỳ huân,
Chung đỉnh đàm tân ác.
Bả
bôi tống chinh huy,
Cư
giả diệc tâm tạc.
Đoàn
Nguyễn Tuấn trong bài Kỷ Dậu trọng thu nghinh tiếp
sách sứ. Sau khi Nguyễn Nể làm Phó Sứ cùng Vũ Huy
Tấn làm Chánh Sứ sang nhà Thanh năm 1789-1790. Một
sứ đoàn nhà Thanh sang phong vương, sứ giả hỏi: Ai
là người hay thơ nhất nước Nam ?, Đoàn Nguyễn Tuấn
trả lời :ấy là Quế Hiên Nguyễn Nể, đỉnh cao nhất
trong thi ca Việt Nam đương thời: Sau gió Bắc
Phong ca hát lại đến Nam Phong. Sau khi sứ đoàn nhà
Thanh ngâm thơ tặng xong lại đến các quan Việt Nam.
Vận nước cơ trời đổi thay, lại thông thương tiếp sứ
với nhau. Chưa hỏi các ngôi sao sáng trong văn học
Việt Nam đương thời, tôi chỉ là người khách biển
theo pḥ. Lại làm quen với tao ông mặc khách từng
ngao du sơn thủy khắp nơi. Tôi chỉ là người phương
xa quê mùa, mấy thuở mới thấy được hội xiêm áo chốn
cung đ́nh, nửa đời công bút nghiên sắp vất hết để về
vườn. Nếu khách hỏi ai là người giỏi nhất thi ca
nước Nam hiện nay, th́ Quế Hiên là đỉnh cao nhất.
THÁNG
TÁM NĂM KỶ DẬU
ĐÓN
TIẾP SỨ GIẢ SANG PHONG VƯƠNG
Bắc
Phong ca hát đến Nam Phong,
Thay
đổi cơ trời cùng lại thông.
Chưa
hỏi Đầu Ngưu pḥ hải khách,
Làm
quen sơn thủy với tao ông.
Phương xa mấy thuở hội xiêm áo,
Sắp
ném nửa đời công bút nghiên.
Tiệc
khách hỏi ai thơ nhất nước,
Quế
Hiên thi trận đỉnh cao phong.
Thơ chữ
Hán Đoàn Nguyễn Tuấn, Hải Ông thi tập
Nhất
Uyên dịch thơ.
Phiên âm
Hán Việt:
KỸ
DẬU TRỌNG THU NGHINH TIẾP SÁCH SỨ
Bắc
Phong ca băi hựu Nam Phong,
Tạo
hóa chân cơ nhất biến thông.
Vị
văn Đẩu Ngưu phù hải khách,
Quản
giao sơn thủy thức tao ông.
Thù
phương kỷ kiến y quan hội,
Bàn
thế tương phao bút nghiễn công.
Tân tích nhược rạn ngô quốc tú,
Quế
Hiên thi trận tối đầu phong.
Chú
thích:
Ngưu
Đẩu: hai ngôi sao trong Nhị thập bát tú (28 ngôi sao
văn học) theo CổĐại Thiên Văn Học vị trí hai ngôi
sao này ở phương Bắc.
Hải
Khách: Đoàn Nguyễn Tuấn thường tự xưng ḿnh là hải
khách, khách biển, ông chài biển quê mùa.
Ninh Tốn
(1743- ?) người xă Côi Tŕ huyện Yên Mô, Ninh B́nh,
19 tuổi đỗ Hương Cống, năm 1778 đỗ Hội Nguyên, giữ
chức Tri b́nh Phiên sĩ, H́nh Bộ Hữu Thị Lang. Năm
1788 ra cộng tác với Tây Sơn giữ chức Hàn Lâm Trực
Học Sĩ, năm 1790 thăng Binh Bộ Thượng Thư tước
Trường Nguyên Bá. Trong Chuyết Sơn thi tập của ông
có bài: Thơ tặng Nguyễn Nể khi ông được cử làm
Chánh Sứ đi sứ lần thứ hai, Ninh Tốn xem ông là
bậc phi thường, bậc tuấn kiệt mới được cử hai lần đi
sứ, đi sứ là điển lễ lớn của thánh hiền giao hảo
với lân bang, Ông quen biết rộng như ngựa quư nhân,
kỳ quen đường đi, là bậc hiền tài như lân, phượng ít
khi xuất hiện sự trọng vọng càng thêm cao. Núi sông
lại mừng sẽ có thêm thơ mới. Mặt trăng, mặt trời lại
soi rực rỡ cờ tiết mao đi sứ. Sau này trong tướng
phủ trù tính việc ǵ với phương Bắc. Mọi cái ông đều
nắm trong ḷng bàn tay không có ǵ khó nhọc.
TẶNG
TIÊN ĐIỀN NGHI Đ̀NH HẦU ĐI SỨ LẦN THỨ HAI (1795).
Giao
hảo lân bang lễ thánh hiền,
Hai
lần đi sứ bậc phi thường.
Nhân
kỳ ngựa thuộc đường quen rộng,
Lân
phượng tài danh trọng vọng tăng.
Giang
sơn mừng có thêm thơ mới,
Nhật
nguyệt soi cờ tiết ruổi rong.
Sau
này tướng phủ cần phương Bắc,
Mọi
việc trong tay chẳng nhọc công.
Thơ chữ
Hán Ninh Tốn, Nhất Uyên dịch
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
TẶNG
TIÊN ĐIỀN NGHI Đ̀NH HẦU TÁI SỨ
Thánh
hiền đại điển tại lân giao,
Lưỡng
độ hoàng hoa thuộc tuấn mao.
Am lộ
nhân kỳ tư dị biến,
Tri
danh lân phượng vọng tăng cao.
Giang
sơn tục hỷ tân thi cú,
Nhật
nguyệt trùng lâm cựu tiết mao.
Tướng
phủ tha niên trù bắc sự,
Thủ
trung vận lượng định vô lao.
Chú
Thích:
Trong
Tinh tuyển Văn Học Việt Nam quyển 5 tập 1. Văn Học
thế kỷ XVIII; nxb KHXH Sài g̣n 2004, tr 695 , PGS
Nguyễn Thạch Giang biên soạn cho rằng Ninh Tốn mất
năm 1790, điều này không đúng, v́ 5 năm sau, 1795
Nguyễn Nể đi sứ lần thứ hai, Ninh Tốn làm tặng bài
thơ này.
Nhân, Kỳ
hai giống ngựa hay
Lân,
phượng: Kỳ lân và Phượng hoàng hai giống linh vật
ít khi xuất hiện giống như người tài được đời ngưỡng
vọng.
Các
người bạn đương thời ca tụng Nguyễn Nể, như thế,
nhưng Nguyễn Du viết thế nào khi anh đi nhậm chức
tại thành Quy Nhơn ? Một chức quan buộc anh ở phía
Nam toà thành sáu tháp. Nguyễn Du không thích nhà
Tây Sơn nên cho rằng chức quan chỉ là điều bó buộc.
Ban đêm vượt đèo Hải Vân đá lỏm cḥm. Năm 2011 tôi
đi qua đèo này nay là một con đường rộng răi, đọc
lại thơ Nguyễn Du tưởng tượng ngày trước chỉ là một
con đường đá cho xe ngựa chạy, đá lỏm chỏm, đi qua
ban đêm hẵn nhiều gian nan, đường dốc, có cả cọp gầm
trong bóng đêm, chưa kể có Ma lai Chiêm Thành: Ba
năm đóng thú nơi vùng núi lam chướng. Qui Nhơn nơi
kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành, ấp thang mộc nơi quê
hương của nhà vua Tây Sơn, Nguyễn Du vẫn xem là vùng
núi hẻo lánh đầy sương lam chướng khí. Tiết tháng
hai lạnh lẽo nh́n hoa khói quê nhà. Một phen từ biệt
không biết rồi đây ở nơi nào. Cuộc trùng phùng có lẽ
phải đợi đến kiếp sau. Trời biển mênh mông, đường xa
ngh́n dậm. Hồn phách t́m nhau, dù trong giấc mộng
cũng khó.
Năm 1794
Nguyễn Du từ Tiên Điền vào thăm anh ở Phú Xuân, để
nhận thêm tiền bạc về xây dựng lại làng Tiên Điền,
được tin anh sắp đổi đi Quy Nhơn làm quan. Nguyễn Du
lúc đó chắc đă nghĩ đến chuyện vượt biên vào Nam
theo chúa Nguyễn Ánh nên nghĩ rằng sẽ không c̣n gặp
anh nữa ! Link:
http://www.thivien.net/viewpoemgroup.php?ID=22
Điều
đáng lưu ư là Nguyễn Du viết cho anh chỉ đề Ức
gia huynh, không để tên anh, cũng không đề tự
Tiến Phủ, không để cả bút hiệu Quế Hiên. Bài viết
cho em Nguyễn Ức cũng thế : Ngô gia đệ cựu ca cơ. Người
hát cũ của em tôi. Nhưng lạ thay thơ Nguyễn Nể viết
cho Nguyễn Du lại viết: Kư Tố Như đệ, hay Kư đồng
hoài Thanh Hiên Tố Như đệ. Anh em trong nhà không ai
gọi nhau bằng bút hiệu cả, cũng không bao giờ ai
viết hai bút hiệu một lượt, đó là dấu vết người sao
văn bản cho Trường Viễn Đông Bác Cổ đời sau khoảng
năm 1920, tự ư thêm vào. Trường hợp Nguyễn Hành và
Đoàn Nguyễn Tuấn cũng thế.
NHỚ
ANH
Lục
tháp thành Nam buộc chức quan,
Gập
gềnh đá vượt Hải Vân đêm.
Chướng lam ba tết xa đồn trú,
Hoa
khói tháng hai nhớ quê hương.
Một
biệt phương nào ai nhớ nhỉ ?
Kiếp
sau hẹn đến cuộc tương phùng.
Biển
trời mù mịt đường ngàn dậm,
Trong
mộng t́m nhau cũng khó khăn.
Thơ chữ
Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
ỨC
GIA HUYNH
Lục
tháp thành Nam hệ nhất quan,
Hải
Vân dạ độ thạch toàn ngoan.
Cùng
xu lam chướng tam niên thú,
Cố
quốc yên hoa nhị nguyệt hàn.
Nhất
biệt bất tri hà xứ trú,
Trùng
phùng đương tác tái sinh khan.
Hải
thiên mang điểu thiên dư lư,
Thần
phách tương cầu mộng diệc nan.
Chú
thích:
Lục
tháp: chỉ thành Quy Nhơn, có tảy 8 cụm tháp, nhưng
chỉ có 6 cụm ở gần đường nên gọi là lục tháp thành.
Hải Vân:
đèo nằm giữa Thừa Thiên và Quảng Nam, nơi hiểm yếu
được gọi là Đệ nhất hùng quan.
Cùng lam
xu chướng, vùng núi sâu nhiều khí độc.
Paris
19-3-2013
TS Phạm Trọng Chánh
Mời đọc những bài viết khác của cùng tác giả :
Nguyễn Du gặp Đoàn Nguyễn Tuấn, sứ đoàn Tây Sơn tại
Hoàng Châu 1790 -
TS. Phạm Trọng Chánh
Nguyễn Du sau khi đậu Tam Trường (1783) ở Trường thi Sơn
Nam lúc 17 tuổi, được anh là Nguyễn Khản, Thượng Thư
Bộ Lại kiêm Trấn thủ Hưng Hóa, ...
Nguyễn Du : nhà sư Chí Hiên “Giang Bắc, Giang Nam
túi tiền không” (1788-1790) -
TS. Phạm Trọng Chánh
Nguyễn Du, mang danh hiệu Chí Hiên, danh hiệu Nguyễn
Du dùng cho đến năm 1796, kư tên hai bài thơ
tặng Hồ Xuân Hương, lưu lại trong Lưu Hương ...
Nguyễn Du chia tay
Nguyễn Đại Lang, Nguyễn Sĩ Hữu tại Liễu Châu 1788 -
TS. Phạm Trọng Chánh
Nguyễn Du gọi cuộc đời từ 20 đến 30 tuổi của ḿnh là
« 10 năm gió bụi » (1786-1796), gia phả và sách vở
giáo khoa trăm năm qua lại viết ...
Nguyễn
Du từ Thái Nguyên sang Vân Nam cuối năm 1787 -
TS. Phạm Trọng Chánh
Bao nhiêu năm nghiên cứu về Nguyễn Du, chúng ta đă
biết hết cuộc đời Nguyễn Du chưa ? Nguyễn Du
có quyển Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm .
Dịch
chương “Nhă Ca”, một dâm thơ trong Cựu ước -
TS. Phạm Trọng Chánh
“Nhă Ca” (CANTIQUES) là một tác phẩm văn chương cổ
đại của dân tộc Do Thái, cách chúng ta khoảng 630
năm trước Tây lịch. Một áng văn chương trữ ...
Đọc Lưu Hương Kư của
Hồ Xuân Hương - TS. Phạm Trọng Chánh
Giữa thời điểm các nhà sách hải ngoại thi nhau đóng
cửa, người đọc tiếng Việt ngày càng thưa thớt, tác
giả gửi sách đi cho các nhà sách, không
Hồ
Xuân Hương và quan Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần
Ngọc Quán - Phạm Trọng Chánh
Trần Ngọc Quán quê Nghệ An, trước làm quan Cai Bạ
doanh Quảng Đức (Chức vụ đứng đầu một doanh, tỉnh
Thừa Thiên ngày sau). Tháng 2 năm Ất ..
Hồ Xuân Hương và
Phật giáo - TS. Phạm Trọng Chánh
Điều nghịch lư trong thơ truyền khẩu gán cho Hồ Xuân
Hương là Xuân Hương thường đi chùa, cuối đời có đi
tu một thời gian, nhưng trong thơ lại ...
* Đối thoại: Sở tri chướng và kinh tế thị trường –
Phạm Trọng Chánh, Ph.D., Paris, Pháp,
Link :http://giaodiemonline.com/baiup/DTGH(3).htm