Tôi vừa nhận bài viết của
ông Giáp Văn Dương do một người gởi đến (xem
http://www.giapvan.net/2010/08/hoc-gi-tu-nguyen-truong-to.html).
Để tránh việc dĩ hư truyền hư nên tôi có bài
phản biện để rộng đường dư luận.
Tôi không đi vào việc
so sánh Nguyễn Trường Tộ (NTT) với ông Fukuzawa
Yukichi, nhà canh tân Nhật bản, v́ người th́ yêu
nước, kẻ th́ bán nước, mà chỉ muốn t́m xem NTT có
tư tưởng canh tân không, hay chỉ sử dụng các mỹ từ
như Canh tân, Đổi mới, Thực dụng v.v..
cho mục đích khác.
1.
Ông Giáp Văn Dương viết: “ … Khác với Fukuzawa
Yukichi, Nguyễn Trường Tộ, … dành phần lớn tâm sức
cho việc viết tấu tŕnh gửi nhà Vua. Tất cả các bản
tấu tŕnh và điều trần của ông đều không được đưa ra
sử dụng, dù hơn ai hết, ông biết được giá trị thật
của chúng: "Tế cấp luận thâu tóm trí khôn của thiên
hạ 500 năm nay... Bài Tế cấp luận của tôi nếu đem ra
thực hành hàng trăm năm cũng chưa hết.”
● Bùi Kha: Ông
Giáp Văn Dương (GVD) trích một đoạn trong bài “Sáu
điều lợi” của NTT rồi ca tụng nhưng ông không dẫn
chứng để độc giả biết NTT thâu tóm “trí khôn” của
thiên hạ 500 năm nay…là gồm những ǵ, hay chỉ
khoác lác tự khoe vô căn cứ mà thôi?
Không có bài “Tế
cấp luận”, hoặc NTT chưa viết hay bị thất lạc.
Đoạn ông GVD đẫn trên đây là ở trong bài chiêu dụ số
5, có tên là “Sáu điều lợi”. Thực tế, nếu ai có đọc
kỷ tất cả 58 bài chiêu dụ của NTT cũng sẽ thấy hầu
hết những ư kiến của ông vô cùng tai hại cho quốc
gia, nhất là về mặt quân sự và chính trị. Ư kiến của
NTT chỉ nhằm mục đích cứu vản t́nh h́nh nguy ngập
của quân viễn chinh Pháp chứ không hề v́ dân tộc
Việt Nam; nơi mà ông ta được sinh ra và lớn lên.Sau
đây là vài dẫn chứng trong rất nhiều đề nghị sai lầm
của ông.
Trong bài chiêu dụ số
1 “Thiên
hạ đại thế luận”, NTT khuyên triều đ́nh ‘nên
cho lính nghỉ ngơi để Pháp giử bờ cỏi cho ḿnh, như
trong rừng có hổ báo th́ chồn cáo không giám bén
mảng tới’ [Linh Mục Trương Bá Cần, “Nguyễn
Trường Tộ con người và di thảo”, TP HCM, 1988,
tr.111].
Trong lúc đó, t́nh
h́nh quân Pháp vô cùng nguy khốn:
-
Ngày 4/01/1859 Đô đốc Rigault de Genouilly gửi cho
viên Thượng thư Bộ Hải quân một văn thư bi thảm như
sau :
“… Quả thật, tôi
thấy cần thiết và hết sức đau đớn xác nhận với ngài
về t́nh trạng tồi tệ về sức khỏe chung. Thiếu tá
Levêque, Đại úy Hải quân Virot, phó kỹ sư Delautel
đều đă đi Ma-cao và chắc phải đưa về Pháp. Tôi không
biết phải đối phó thế nào với các lỗ trống đó. Mỗi
ngày lại có nhiều người chết, và thời tiết xấu mà
các nhà truyền giáo bảo là sẽ chấm dứt vào đầu tháng
12 vẫn tiếp tục với những trận mưa dầm dề không
tưởng tượng nổi. Chỉ nội sự kiện đó, ngài cũng có
thể đánh giá về các tin tức đang đến với tôi về mặt
này và ḷng tin tưởng của tôi đối những cuộc hành
quân phải thực hiện.
Dù thế nào đi nữa, thưa ngài Thượng Thư, chúng ta
đang nhanh chóng tuột dốc đến kiệt quệ và đến lúc
phải bất động tại Đà Nẵng. Mọi phương cách để cải
thiện t́nh trạng quân sĩ đều đă được sử dụng hết và
không kết quả. Các y sĩ trước t́nh trạng bệnh tật đă
kết luận là người Âu không nên làm việc ǵ trong khí
hậu này, nhưng làm sao được khi ở đây, phải làm
những việc cần thiết cho sự pḥng vệ, xây cất bệnh
viện, lều trại v.v... Đó là một cái ṿng luẩn quẩn
khiến chúng ta phải điên đầu”. (Thư khố Quốc
gia, tài sản Hải quân, B 84769, dẫn theo Luận án
Tiến sĩ của Cao Huy Thuần Christianisme et
Colonialisme au Viet Nam 1857-1914 (Đạo Công
giáo và Chủ nghĩa Thực dân Pháp tại Việt Nam,
1857-1914 Paris, France, 1968, bản ronéo, tr.108).
Nguyên văn tiếng Pháp:
“... Je dois en effet et bien
malheureusement confirmer à Votre Excellence l'état
déplorable de la santé générale. M. le Commandant
Lévêque, M. le Lieutenant de Vaisseau Virot, M. le
S. Ingénieur Delautel vont à Macao et devront être
probablement renvoyés en France. Je ne sais plus
comment faire face à tous ces vides. Chaque jour
amène de nombreux décès et les mauvais temps, qui
d'après les missionnaires, devaient finir avec le
décembre, continuent avec une abondance de pluies
qui dépasse toute idée. Par ce seul fait, Votre
Excellence peut juger de la valeur des
renseignements qui me viennent de ce côté, et de la
foi que je puis leur accorder, pour les opérations à
entreprendre avec la division. Mais quoiqu'il en
soit, Monsieur le Ministre, nous descendons par une
pente rapide vers l'impuissance radicale et le
moment où il faudra demeurer immobile à Tourane.
Tous les moyens d'améliorer la situation des troupes
et des équipages ont été épuisés et sans succès. Les
médecins vaincus par la maladie, arrivent à cette
conclusion que les Européens ne doivent faire dans
ce climat aucun travail, mais alors comment s'y
établir, pourvoir aux nécessités de la défense, des
constructions d'hôpiteaux, de baraques etc... C'est
un cercle vicieux contre lequel on viendrait se
briser la tête” (Archives Nationales (Fonds marine)
BB4769, P. 108).
-Trước t́nh h́nh nguy
ngập như trên, ngày 8/4/1859, một chỉ thị khác của
Bộ Hải quân và Thuộc Địa gởi cho Đô đốc R. de
Genouilly như sau:
“V́ thế, Hoàng
thượng tin cậy ở kinh nghiệm và sự sáng suốt của Ông
trong mọi quyết định, với lực lượng dưới quyền Ông
điều khiển, có nên theo đuổi việc thiết lập nền bảo
hộ trên Vương quốc An Nam không; hay chỉ nên cưỡng
bức Chính phủ họ, nhờ vào việc chiếm đóng Đà nẵng và
nhiều cứ điểm khác mà Ông đă chiếm hay sẽ chiếm
được. Cùng với việc phong tỏa một hay nhiều cảng ở
Nam Kỳ để đi đến sự kư kết một hiệp ước trên nền
tảng kế hoạch 25/11/1857; hay cuối cùng là chúng ta
đành bỏ các vị trí mà chúng ta chiếm đóng và từ bỏ
hẳn mọi mưu toan rơ ràng ngoài tầm các phương tiện
hoạt động mà Ông có” (Chỉ thị của Thượng thư Bộ
Hải quân và Thuộc Địa 8/4/1859, Thư khố Quốc gia,
tài sản Hải quân, BB4 1045, Sđd, trang 118&119).
Nguyên văn tiếng Pháp
(xem Bùi Kha, “Nguyễn Trường Tô & vấn đề canh
tân”, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 30.3.2011,
tr.52-53).
2.
Ông Giáp Văn Dương:
“Những kiến nghị cải
cách của ông, dù đúng đắn và có tầm vóc thời đại,
nhưng rốt cuộc lại trở nên vô dụng”.
● Bùi Kha:Như
tôi đă tŕnh bày nhiều chi tiết rơ trong sách
“Nguyễn Trường Tộ & vấn đề canh tân” và hai dẫn
chứng vừa nêu trên rằng, NTT núp sau bức màn canh
tân, đổi mới, thực dụng để giúp cho thế nguy
khốn của quân đội viễn chinh Pháp mà thôi. V́ triều
đ́nh chủ trương ḥa, thay v́ chiến để đuổi giặc Pháp
cút về nước, v́ chúng đang kiệt quệ, như tài liệu
trên cho thấy. V́ ḥa nên Pháp chiếm 3 tỉnh miền
Đông, rồi 3 tỉnh miền Tây, cuối cùng chiếm luôn cả
nước. NTT không những chủ trương ḥa đậm nét hơn mà
c̣n khuyên quân Đại Nam bỏ súng xuống để Pháp giữ bờ
cỏi cho ḿnh. Những ư kiến sai lầm tai hại như thế
nên lên án hay cần tâng bốc?
Giả thiết NTT không có
ư giúp Pháp, nhưng những ư kiến “ḥa, cho lính nghỉ
ngơi”…hết sức sai lầm và tai hại như thế, có bao giờ
ông ta xin lỗi triều đ́nh và dân chúng Việt Nam v́
những ư kiến cần phải trừng phạt ấy không?
3.
Ông Giáp Văn Dương viết:
“Từ nhỏ ông đă được
Giám mục Ngô Gia Hậu (Gauchier) dạy tiếng Pháp cùng
với các môn khoa học thường thức của Tây phương. Ông
lại được cho đi du học ở nhiều nơi như Singapore,
Malaisia, Pháp, La Mă...”
● -Bùi Kha:
Ngoại trừ học để làm thông ngôn, để làm bồi Tây tại
Pénang Mă lai, có tài liệu nào viết NTT được cho đi
du học các quốc gia, mong ông GVD cho độc giả biết.
Cách tŕnh bày của ông GVD cho thấy Giám mục
Gauthier ban phát cho NTT một ân huệ là “được đi du
học”. Mà NTT, theo ông GVV là một nhà “cải cách cho
dân tộc ta”. Như thế, Gm Gauthier, gián tiếp, là ân
nhân của Việt Nam. Nhưng ông GVD không biết Giám mục
Gauthier là một tên t́nh báo cao cấp của thực dân
Pháp mà NTT hầu như vai kề vai ḷng cạnh ḷng với
tên t́nh báo nầy đến suốt gần 20 năm, (Bùi Kha, sđd,
trang 137-147). Nếu NTT biết mà không tố cáo th́ ông
yêu nước nào? Nếu không biết th́ không nên khoác lác
tự khoe sai lầm có dụng tâm:
� “Về việc học không môn nào tôi không để ư tới,
cái cao của thiên văn, cái sâu của địa lư, cái phiền
toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp
giáo, dị nghệ, các môn cách trí, thuật số, không môn
nào tôi không khảo cứu, nhất là để nghiên cứu về sự
thế dọc ngang, tan hợp trong thiên hạ”(Di thảo
số 3).
4.
Ông Giáp Văn Dương viết:
“Tháng 5 năm 1863 ông đă soạn xong ba văn bản để gửi
lên Triều đ́nh Huế: bản thứ nhất là Tế cấp luận, bản
thứ hai là Giáo môn luận, bản thứ ba là Thiên hạ
phân hợp đại thế luận. Trong ba bản đó, bản Tế cấp
luận là văn bản quan trọng nhất. Nội dung của bản
này đề cập đến việc canh tân và phát triển đất
nước”.
● Bùi Kha: Đoạn
văn nêu trên ông GVD viết “Tế cấp luận là văn bản
quan trọng nhất…” Tôi muốn dè giặt để nói rằng
cho đến nay hầu như chưa ai có bản “Tế cấp luận”.
Trong sách của Lm. Trương Bá Cần, một tác phẩm
đồ sộ chứa đựng 58 bản văn của NTT cũng không có bài
nào gọi là“Tế cấp luận”, nhưng có thấy NTT
nhắc đến tên bài nầy trong chiêu dụ “Lục lợi từ”
mà thôi [TBC, sđd, tr. 150].
Trong giai đoạn từ tháng 3 đến tháng 5. 1863, NTT
viết 3 bài, theo thứ tự thời gian: “Thiên hạ đại thế
luận”, “Giáo môn luận”, và “Bài trần t́nh”. Bài
Thiên hạ đại thế luận, NTT đưa ra những nhận xét
hoàn toàn sai lầm về t́nh h́nh quân đội viễn chinh
Pháp và quân ta cũng như những sự kiện lịch sử để
cứu nguy cho t́nh trạng đang dẫy chết của quân thực
dân mà tôi chỉ nêu hai chứng liệu như trên. “Bài
trần t́nh”, NTT phân bua việc cọng tác với Pháp
của ḿnh. Bài nầy viết sau bài Thiên hạ đại thế
luận khoảng hơn một tháng nhưng rất mâu thuẩn
với nhau về t́nh h́nh quân sự của Pháp.
Thật vậy, trong “Thiên hạ đại thế luận” NTT
viết quân Pháp quá mạnh, quân ta quá yếu, chống
lại họ cũng giống như châu chấu lay trụ đá mà thôi,
nên cho lính nghỉ ngơi để Pháp giữ bờ cỏi cho ḿnh.
Nhưng chỉ sau đó khoảng một tháng ông viết ngược
lại: “Đối với hạng người cho chúng là lớn mạnh mà
sợ th́ tôi giận ra mặt và bảo như thế là “làm tăng
trưởng nhuệ khí người ta mà tự giệt uy phong của
ḿnh… Đối với hạng người cho rằng chúng có thế lực
vững, có nhiều lợi thế hơn có thể chịu đựng lâu dài
th́ tôi bảo rằng “chuyện hưng thịnh suy vong la điều
vô thường…”Sở dĩ có t́nh trạng tiền hậu bất nhất
chỉ trong một thời gian ngắn như thế v́ bản chất
trọng Pháp, giúp chúng thoát khỏi t́nh trạng nguy
khốn, nhưng lúc bị triều đ́nh nghi ngờ th́ NTT tự
trở cờ; nói ngược lại.
Nếu để ư, chúng ta
cũng sẽ thấy hầu hết 58 bản chiêu dụ của NTT, luôn
luôn tùy thuộc t́nh h́nh chính trị và quân sự của
Pháp mà viết, miễn sao đạt được mục đích giúp Pháp
thực hiện chương tŕnh xâm chiếm nước ta.Độc giả sẽ
thấy rơ thêm trong bài “Giáo
môn luận”.
Tôi nghĩ ông GVD có
thể chưa đọc bài Giáo môn luận, hoặc có đọc
nhưng không đối chiếu với sử liệu và t́nh h́nh
chính trị quân sự và nhất là tôn giáo thời bấy giờ.
Sau đây là một trích đoạn trong Giáo môn luận.
Nguyễn Trường Tộ viết:
“Xét ra đạo Công giáo vào nước ta từ thời Lê. Đầu
tiên, các giáo sĩ Bồ Đào Nha đến giảng đạo ở tỉnh
Hưng Yên, tiếp đến có các giáo sĩ người Pháp, người
Y Pha Nho đến, được nhiều người tin theo. Lúc bấy
giờ, giáo dân và những người trong ba đạo (Phật,
Lăo, Khổng) tuy tín ngưỡng khác nhau nhưng vẫn ḥa
ái tiếp đón nhau, lễ nghĩa đối đăi nhau, năng lui
tới với nhau không có ǵ hiềm nghi, đều là con dân
của nước nhà mà thôi. Từ khi ban hành lệnh nghiêm
cấm th́ mới sinh ra ghen ghét kỳ thị nhau, do ghen
ghét kỳ thị nhau mới sinh ra tội lệ. Từ đấy, giáo
dân bị phiền nhiễu đến nỗi phải lưu ly thất sở mà
mắc vào ṿng h́nh phạt. Nước vốn trong, có quấy lên
mới bị đục, nếu ngừng th́ chốc lát sẽ trong trở lại”(Giáo
môn luận, TBC, Sđd, tr. 116).
Đoạn trên NTT cho
rằng, v́ lệnh cấm đạo nên mới sinh ra ghen ghét, kỳ
thị, tội lệ, giáo dân bị lưu đày và bị h́nh phạt, là
những ư tưởng rất sai lầm và chắc chắn nếu ai có
ḷng yêu Tổ quốc th́ cũng không thể chịu được các kế
hoạch thực dân xâm lược của các ông cố đạo sau đây:
● Linh mục Legrand
De La Liraye viết:
“Theo thần, chiến
tranh là cách duy nhất để đạt kết quả nghiêm chỉnh
tại nước đó. Cần phải chấp nhận chiến tranh như là
cách tốt nhất, phải đánh gấp ở Bắc Kỳ, Huế và Đà
Nẵng cùng lúc, nếu được th́ lật đổ chính phủ, bàn
chuyện giải phóng cho hai dân tộc thua trận ở
Cochinchine và đặt lên ngôi ở Bắc Kỳ một kẻ giả danh
là con cháu nhà Lê”.
Nguyên văn tiếng Pháp:
“La guerre suivant moi
est le seul moyen d'arriver avec ce pays à un
résultat serieux. Il faut l'accepter comme ce qu'il
y a de mieux, la faire avec promptitude au Tonkin, à
Huế et Tourane à la fois, renverser s'il y a moyen
le gouvernement, parler de l'emancipation des deux
peuples vaincus en Cochinchine et du placement sur
les trône d'un pretendant de la famille des Lê au
Tonkin” (CHT, Sđd, p. 72).
● - Giám mục Retort
(viết thư cho M. Kleckowski):
“Nước Pháp cần phải
làm cái ǵ lớn lao quan trọng lâu dài, xứng với nó
và Hoàng đế của nó. Nếu nước Pháp chinh phục xứ này
(có lẽ việc này không khó) và cai trị trực tiếp,
người dân Bắc Kỳ sẽ bằng ḷng, nhưng họ thích sống
dưới sự bảo hộ và ảnh hưởng của Pháp với một ông vua
riêng”(đưa ra ảo tưởng để thuyết phục triều đ́nh
Pháp, BK).
Nguyên văn tiếng Pháp:
“La pensée de Mgr.
Retort était plus nette encore; Il faut,
déclarait-il, que la France fasse quelque chose de
grand, d'important, de durable et digne d'elle et de
son Empereur. Si la France faisait la conquête de ce
pays (et cela ne lui serait pas difficile) et le
gouvernait directement, les Tonkinois en seraient
assez contents, mais ils aimeraient mieux être sous
la protection et l'influence de la France avec un
roi particulier de leur nation” (Lettre de Mgr.
Retord à M. Kleckowski précitée: Thư giám mục Retord
gởi Kleckowsky trong công văn 12/10/1857 của Đô đốc
Rigault de Genouilly. Thư khố quốc gia, tài sản Hải
quân BB4 752, CHT, Sđd, p. 80).
● - Linh Mục Huc:
Nên chiếm cả nước Việt Nam. Ông tŕnh bày trước Ủy
ban Nam Kỳ…[xem thêm Bùi Kha, sđd, tr. 165-171].
C̣n nhiều nữa…
Để cho vấn đề được vô
tư hơn, rơ ràng và chính xác hơn, tại sao Triều đ́nh
nhà Nguyễn cấm đạo Công Giáo, tôi dẫn ư kiến của Đô
đốc Page trong văn thư đề ngày 14/12/1859 và
25/12/1859 sau đây.
�Sau khi đi khắp nước
thấy nhiều, nghe nhiều cuối cùng Đô đốc Page công
nhận lư lẽ vững chắc của Triều đ́nh Huế, chính ông
cũng bực ḿnh về thái độ của các nhà truyền đạo và
con chiên của họ:
� “Thật vậy, trong
lúc dân chúng hoảng hốt chạy trốn khi quân Pháp kéo
đến và tổ chức vũ trang tự vệ, ở nơi đông dân th́
3000 tín đồ Công Giáo đi theo Pháp và xin được đưa
vô Sài G̣n là nơi mà Page đă dựng lên một thị trấn.
Tôi ngạc nhiên biết bao khi hôm sau các nhà truyền
giáo đến nói với tôi rằng các con chiên An Nam không
tuân theo một quyền lực vô đạo, họ nói như thế. Sao!
Họ cũng không muốn có cảnh sát để chận đứng trộm
cướp du đăng, cướp bóc thành phố? Và tôi rất hổ thẹn
khi thú nhận với Ngài rằng Giáo Hội Công giáo tại An
Nam đă ngạo nghễ đi rao giảng các nguyên lư đó:
Ngoài ra không người An Nam theo Công Giáo nào ngần
ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp, ông vua An
Nam không theo đạo, không phải là vua của họ. Chắc
bây giờ ngài đă hiểu tại sao vua, quan đă coi các
nhà truyền giáo là kẻ thù?”
�

Vua Tự Đức
Nguyên Văn tiếng Pháp
[vui ḷng xem Bùi Kha, sđd, tr. 170-171]
Thế mà, ngoài ông GVD,
một số người khác cũng ca tụng ư kiến sai lầm của
NTT về t́nh h́nh tôn giáo.
Nguyễn Trường Tộ
và việc Canh tân đất nước
Có người vẫn nghĩ sai
lầm rằng NTT có tư tưởng và tâm huyết canh tân đất
nước, rồi trích một đoạn chỗ nầy, vài câu nơi khác
rồi ghép lại với nhau mà ca tụng vô tội vạ không có
chứng cớ.
Hai bài tiêu biểu cho
việc canh tân là
“Kế hoạch làm cho dân giàu, nước mạnh” (bài
số 5),
“Tám việc cần làm” (bài số 27) . Sau đây
là một số chứng cớ để cho thấy ông NTT CHỈ
DÙNG các từ Canh tân, Đổi mới, Thực
dụng…, nhưng thực tế không có chương tŕnh
hoặc kế hoạch nào có thể gọi là Canh tân::
● Di thảo số 5 có tên
Lục lợi từ (Sáu điều lợi), Nguyễn Trường Tộ
dùng cụm từ rất quyến rũ “Kế hoạch làm cho dân
giàu nước mạnh”, được viết ngày 18/7/1864, và
bắt đầu bằng những lập luận như sau:
“... Tạo vật sinh
ra muôn vật để cho con người sử dụng mà không tiếc
một thứ ǵ... Kể từ khi có loài người, loài vật đến
nay đă gần 7.000 năm...
Theo khoa học các sinh
vật xuất hiện cách đây đă mấy tỉ năm chứ không phải
bảy ngàn năm như Nguyễn Trường Tộ cuồng tín hiểu
sai.
● Cũng nhằm mục đích
khuyên dân ta nên cộng tác với Pháp, ông viết sai
lầm về sử như sau:
“Cho đến thời Minh,
bước tiến Tây Âu ngày một lên cao vùn vụt, đến nỗi
không có chỗ để thử cái tài dũng của họ nữa. Do đó,
họ chuyển dần về phía Tây, và bỗng nhiên t́m được
Tây Châu (tức là Tân Thế Giới, BK) và chiếm
lấy làm đất của ḿnh, khai thác vùng đất đai mấy
ngàn năm hoang vu, cải tiến phong tục tập quán mấy
ngàn năm hủ lậu. Lúc đầu, người dân bản xứ c̣n xem
họ như thù địch, dần dần đă chịu gần gũi và ngày
càng trở nên thân thiết, những người dân ở đây đă
học được hết những kỹ xảo của người phương Tây, cho
nên không đầy 100 năm sau đă đuổi được người
phương Tây ra khỏi đất ḿnh...” (Trương Bá
Cần, Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo,
trang 136-137).
Nhận định:
Tân Thế Giới mà ông muốn nói, là Hoa Kỳ ngày
nay. Sự “cấu tạo” dân Hoa Kỳ, cách đây hơn 200 năm,
không phải như Nguyễn Trường Tộ viết.
Hiệp Chủng Quốc
nguyên sơ là của thổ dân da đỏ, đất hoang nhưng trù
phú, được hợp thành bởi:
- Thổ dân da đỏ (American Indians).
- Thành phần phạm pháp ở các quốc gia
khác bị chính phủ họ đuổi ra khỏi nước.
- Những người phiêu lưu, mạo hiểm thích
làm giàu, từ châu Âu.
- Những người bỏ xứ ra đi để tránh sự
ngược đăi tôn giáo hoặc chính trị.
Với khoảng bốn triệu
người mới trên vùng đất lạ trù mật, họ phải chiến
đấu với thiên nhiên và hoàn cảnh để tồn tại.
Về mặt chính trị, họ
dần dần tách rời khỏi sự thống trị của người Anh.
Sau những năm chiến tranh, nhờ Pháp và Hà Lan giúp,
nên họ đă thắng vương quốc Anh và tuyên bố độc lập
vào ngày 4/7/1776. (Xin xem thêm Nguyễn Hiến Lê,
Lịch sử thế giới, trang 444-446).
Đoạn sử rơ ràng ấy, chúng ta đă thấy không có chuyện
người dân ở đây đă học được hết những kỹ xảo của
người phương Tây, cho nên không đầy 100 năm sau đă
đuổi được người phương Tây ra khỏi xứ ḿnh.
NTT dẫn sai lịch sử
như thế, là với hậu ư khuyên triều đ́nh Tự Đức và
dân Việt Nam hăy bỏ súng xuống, gần gũi và thân
thiết với thực dân Pháp.
●
Năm miền Ấn Độ
Cũng nhằm hậu ư thuyết
phục dân Việt Nam cộng tác với Pháp, Nguyễn Trường
Tộ tiếp tục viết sai sử liệu: “Năm miền Ấn Độ đă
gần có dấu hiệu bắt đầu sắp đánh bại phương Tây”
để đưa ra một nhận định sai lầm khác:
“Lấy cái lợi vô
cùng chưa dùng của núi sông chúng ta mà đổi lấy cái
trí của họ, th́ họ là kẻ vỡ hoang mà ta th́ hưởng
cái thành quả như các nước Tây Âu vậy”. Thực dân
Pháp đâu có khờ đến nỗi họ là kẻ vỡ hoang mà ta th́
hưởng cái thành quả! Chính sách của thực dân Pháp,
cụ Phan Bội Châu nhận định rất đúng:
“Họ coi ḿnh như trâu như chó,
Họ coi ḿnh như cỏ như rơm.
Cỏ th́ nhổ cỏ, trâu làm thịt trâu”.
Chứ làm ǵ có được cái
thiên đàng, họ là kẻ vỡ hoang mà ta th́ hưởng cái
thành quả!
Chúng ta đừng quên rằng, những bản Điều trần
của Nguyễn Trường Tộ luôn luôn đi song hành với t́nh
h́nh chính trị và quân sự của thực dân Pháp tại Việt
Nam lúc bấy giờ để hỗ trợ cho kẻ thù. Thật vậy, ông
viết bản Điều trần này vào tháng 6/1864, lúc
người dân Nam Kỳ sử dụng kế hoạch nhà không đồng
vắng; không chịu hợp tác với Pháp. C̣n
triều đ́nh th́ sau khi kư ḥa ước Nhâm Tuất năm
1862, nhường ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp,
nhưng vua Tự Đức cố tŕ hoăn không chịu phê chuẩn
hiệp ước.
Đoạn dưới đây sẽ cho
thấy dân Việt Nam đă tỏ thái độ như thế nào đối với
Pháp. Từ đó, chúng ta sẽ thấy mối nguy cơ lúc NTT
khuyên nên thỏa hiệp. Đoạn sử của Chesneaux trong
cuốn “Đóng góp vào lịch sử dân tộc Việt Nam”
để thấy rơ t́nh h́nh ở Nam Kỳ rồi đối chiếu với lời
khuyên hợp tác của NTT:
“Ngay
khi vừa phê chuẩn, triều đ́nh Huế đă cho biết… không
thừa nhận việc nhượng ba tỉnh Nam Kỳ là dứt khoát,
vĩnh viễn. C̣n dân chúng Việt Nam… không chấp nhận
chế độ thực dân… những phong trào nổi dậy chống Pháp
tại Nam Kỳ ngày càng phát triển.
Nông dân vẫn thù
địch với Bonard và những người thay chân ông. Phần
lớn các quan lại từ chối hợp tác với chế độ mới...”.
Theo sử gia Cultru nói,
“Tầng lớp có khả năng
cai trị th́, hoặc vắng mặt, hoặc xấu bụng. Đó là
cuộc ra đi hàng loạt của các bậc sĩ phu và của dân
chúng, rời bỏ các tỉnh miền Đông Nam Kỳ bị người
Pháp chiếm đóng, để về vùng tự do, ở miền Tây, và tổ
chức kháng chiến”.
Thái độ bất hợp tác
chung khắp nơi đó, buộc các Đô đốc toàn quyền, muốn
duy tŕ bộ máy hành chính Pháp tại Nam Kỳ, chỉ c̣n
sử dụng được tối thiểu những công chức Việt Nam
(phiên dịch, thư kư...) mà thôi. Và duy chỉ có những
phần tử kém hạnh kiểm nhất trong dân, t́nh nguyện
đứng ra phục vụ cho những ông chủ mới…”.
Đề đốc Rieunier cũng nói rằng: “Chúng tôi chỉ có
những giáo dân và bọn du thủ du thực”.
Đại tá Bonard
viết: “Xô về đây với cái lưng mềm dễ uốn, họ tham
sống sợ chết; họ hoàn toàn hững hờ với cuộc đấu
tranh của dân tộc, sẵn sàng phụng sự bất cứ những
ông chủ nào... Người ta sẽ tuyển dụng, trong số họ,
tất cả nhân viên hành chính cần thiết cho nhà nước,
hoặc những người giúp việc gia đ́nh: làm đầy tớ, làm
khuân vác, làm người chạy giấy, và cả những tên
phiên dịch, hoặc những người ghi chép, được đào tạo
thô sơ qua các nhà trường của Hội truyền giáo, chính
là qua sự tiếp xúc với những kẻ khốn nạn này mà thực
dân và công chức, vừa mới đổ bộ lên, làm quen với
dân tộc Việt nam...(4) [NTT cũng làm phiên
dịch cho Tổng hành dinh Pháp để mở rộng ṿng chiếm
đóng, BK]..
… “Những phong trào
cách mạng lớn tiếp tục, chú ư nhất là các phong trào
Quản Định, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Quản Lịch,
Quản Thanh, không ngừng giương cao ngọn cờ kháng
chiến, và gây nhiều khó khăn cho kẻ chiếm đóng…”,
Cité par J. Chesneaux, trong cuốn “Contribution,
à l'Histore de la Nation Vietnamienne”, p.115
(Nguyễn Xuân Thọ, p. 126 & 127).
Đọc đến đây chúng ta
thấy rơ, NTT khuyên nên hợp tác với Pháp là rất có
lợi cho chương tŕnh ổn định t́nh h́nh và kiện toàn
guồng máy cai trị của kẻ xâm lăng.
●
LÀM HỘT NỔ VÀ KHAI
THÁC MỎ THAN
Bằng một hàng chữ lớn
trong bản Điều trần này, Nguyễn Trường Tộ
viết: “Xin kê ra các phương pháp làm hột nổ và
đúc súng, đúc kim loại, cùng các môn quang học, cơ
học, hóa học, khai thác mỏ than”.
Với hàng chữ lớn ấy, người đọc cảm thấy sung sướng
v́ hy vọng sau khi đọc đoạn này (dài khoảng 1.800
chữ) là có thể biết được, ít nhất là lư thuyết, về
“phương pháp làm Hột nổ và đúc súng...” Mặc
dù tôi đeo kính hiển vi nhưng cũng không hề thấy NTT
tŕnh bày phương pháp nào cả!
●
PHƯƠNG PHÁP LÀM GIÀU
Đoạn chính thứ hai
trong bản Điều trần, NTT viết: “Sau đây,
tôi xin đưa ra một khoản về việc làm sao cho nước
nhà giàu có để cứu giúp lúc khẩn cấp: Một là nguồn
lợi về biển. Về biển th́ không có nguồn lợi nào lớn
bằng cá với muối. Hai là nguồn lợi về rừng. Rừng th́
không có ǵ lớn bằng gỗ. Ba là nguồn lợi về đất đai.
Đất đai th́ không có ǵ lớn bằng tơ gai. Bốn là
nguồn lợi về mỏ. Về mỏ th́ không có ǵ lớn bằng đồng
và thiếc...”.
Đó là những nhận định sai. V́ Việt Nam là một nước
nông nghiệp, đất để trồng lúa gạo cho đủ ăn là
chính, nếu gạo c̣n dư th́ xuất khẩu. C̣n tơ lụa là
phụ chứ không thể chính được.
Hầm mỏ th́ nếu có được mỏ bạc, mỏ vàng chắc chắn sẽ
quư hơn mỏ đồng, mỏ thiếc. Lúc nói biển có cá và
muối, rừng có gỗ, đất trồng dâu nuôi tằm có tơ lụa
và đất có quặng mỏ, ai lại không biết các điều đó.
SÁU ĐIỀU LỢI CẦN
LÀM
Như quư độc giả đă
thấy, bản Điều trần số 5 này có tên là Kế
hoạch làm cho dân giàu nước mạnh cũng gọi Lục
lợi từ (sáu điều lợi) viết ngày 18/7/1864.
Sở dĩ tôi nhắc lại
tháng năm ông viết, v́ thời gian rất quan trọng. Bối
cảnh chính trị của thế giới trong giai đoạn này sẽ
giúp chúng ta đánh giá thâm ư trong bài sáu điều
lợi lớn mà Nguyễn Trường Tộ khuyên nên áp dụng.
Sáu điều lợi đó là:
a. Nhờ nước Anh để
ngăn chặn Pháp:
“Anh và Pháp xưa nay vốn thù hằn nhau. V́: - Anh
đày vua Napoléon Bonaparte của Pháp ra tận đảo xa
xôi. - Pháp giúp Hợp Chủng Quốc làm cho Anh bại
trận. Do đó, nên nhờ Anh giúp và qua Anh nhờ thông
báo với Nga và Áo để nhờ các nước giải quyết giúp ta”.
b. Xúi Anh gây sự
với Pháp:
Nước ta phải dùng lời lẽ thật từ tốn và tiền bạc
thật hậu, sang nước Anh, nói hết những điều sai trái
của Pháp... Nay người Anh đến giúp chúng tôi một tay
khôi phục lại, chúng tôi sẽ vui ḷng nhường quư quốc
một thương cảng lớn, kư thác vĩnh viễn và sống như
anh em với nhau...”.
c. Nhờ Anh để ly
gián Pháp:
“Anh và Pháp xưa nay vẫn ghen ghét, nghi ngờ
nhau, tuy tạm thời cộng tác nhưng Anh vẫn giành phần
hơn. Pháp hay đa nghi. Nay nếu ta năng đi lại với
người Anh, hoặc thăm viếng hoặc mua bán... th́ người
Anh cũng sẽ đối xử với ta một cách xứng đáng... Pháp
thấy vậy ắt sinh nghi... mà xa ĺa người Anh…”.
d. Nhờ Anh và Nga
đề pḥng nước Pháp:
“Nếu ngày nay ta biết giao hảo với người Anh
trước để đề pḥng đường biển, sau sẽ thông thương
với nước Nga để đề pḥng đường bộ…”.
e. Thông hiếu với
Giáo hoàng:
“Ngày nay nếu ta biết qua lại giao thiệp với các
nước lớn phương Tây... Rồi ta lại qua nước La Mă
thông hiếu với Giáo hoàng... Nếu Giáo hoàng cho việc
giúp ta là phải, th́ mọi người đều vui ḷng thực
hiện, ta không lo người Pháp không nghe...”.
g. Dùng số người
Anh lưu vong để huấn luyện:
“...Chiêu mộ những người Anh sống lưu vong ở hải
ngoại, cho họ tiền của, cư xử tốt để được ḷng họ,
rồi nhờ họ huấn luyện binh lính quân ngũ cho ta.
Binh Pháp của người Anh rất giỏi…”.
Ông viết tiếp: “Vậy
muốn áp dụng kế này phải gấp rút khai thác các nguồn
lợi và nhờ người khác giúp sức... C̣n như sẽ làm
theo đường lối nào và sử dụng ngôn ngữ ǵ th́ tôi sẽ
cùng với ông Nguyễn Hoằng (Linh mục Việt gian,
BK) xin hết sức làm để giúp muôn một”. (Điều
trần số 5, TBC, SĐD, trang 145-151).
NHẬN ĐỊNH SÁU
ĐIỀU LỢI
T́m hiểu các phong
trào đi chiếm thuộc địa để thấy những sai lầm cố ư
của NTT.
●
Vùng châu Phi
Đầu thế kỷ 19, châu
Phi là một vùng hầu như bí mật chưa ai để ư tới v́
rừng quá già, khí hậu quá nóng. Sa mạc rộng, người
châu Âu chỉ biết một dải đất nằm theo Địa Trung Hải
tức là vùng Maroc, Algerie, Tunisie, Lybie, Ai Cập
và vùng trên bờ Đại Tây Dương.
Năm 1840, Livingstone
tới châu Phi để nghiên cứu y học, thám hiểm cả một
vùng mênh mông từ Congo tới Mũi Hảo Vọng. Pháp, Đức
cũng sai người thám hiểm như thế. Dần dần họ dùng vũ
lực nên châu Phi trở thành thuộc địa của Anh và Pháp
dễ dàng. (Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử thế giới,
NXB Văn Nghệ, Hoa Kỳ, 1994, trang 610).
●
Ấn Độ
Ấn Độ là thuộc địa quư
nhất của Anh. Để bảo vệ, Anh chiếm các xứ xung quanh
như một phần Tây Tạng, c̣n phần kia th́ chia quyền
lợi với Trung Hoa. Phía Đông, Anh chiếm Miến Điện
(NHL, SĐD, trang 614).
Sau khi bị hất ra khỏi
Ấn, Pháp chiếm Việt Nam (năm 1862), Cao Miên và Lào,
làm chủ cả bán đảo Đông Dương. C̣n Xiêm (Thái Lan)
trở thành vùng trái độn chịu ảnh hưởng của Pháp lẫn
Anh (NHL, SĐD, trang 615).
●
Trung Hoa và Hồng Kông
Năm 1838, triều vua
Đạo Quang, Tổng đốc Lâm Tắc Từ chém một số người
nghiện thuốc phiện và đem đổ xuống biển tất cả các
thuốc phiện tịch thu được của các thương gia ngoại
quốc như Bồ Đào Nha, Pháp, Hà Lan. V́ thế Anh và các
nước chống Trung Hoa. Trung hoa cắt nhiều tỉnh và
giao Hồng Kông cho Anh.
Qua đoạn tóm lược t́nh
h́nh chiếm thuộc địa của các nước châu Âu như trên,
cho chúng ta có vài nhận xét sau đây:
- Anh quốc đă thỏa măn
những ǵ họ muốn nhờ hai cuộc chiến tranh Nha phiến,
thứ nhất (1839) và thứ hai (1856-1860).
- Trong các quốc gia
đi chiếm thuộc địa, Anh chiếm được nhiều nhất: từ
Phi Châu, đến Ấn Độ, Tây Tạng, Miến Điện, Hồng Kông
và nhiều phần đất quan trọng của Trung Hoa. Do đó,
người ta nói rằng: Mặt trời không bao giờ lặn
trên thuộc địa Anh.
- Với số thuộc địa quá
rộng lớn như thế, Anh chưa đủ th́ giờ để khai thác,
cần ǵ phải xen vào Việt Nam để phải đổ máu vô ích
với Pháp. Do đó, bốn điều Nguyễn Trường Tộ viết
trong bản Điều trần:
Nhờ Anh để ngăn
chặn, gây sự, và ly gián Pháp, và cùng với Nga để đề
pḥng Pháp
là những đề nghị không thực tế, không hiểu và không
đúng với bối cảnh lịch sử thời bấy giờ. Đó là chưa
nói đến t́nh trạng nếu Anh bằng ḷng giúp th́ Việt
Nam sẽ gặp phải cảnh đuổi chó sói ra đàng trước,
rước cọp vào ngă sau.
Dùng người Anh lưu
vong ở hải ngoại để huấn luyện quân đội Việt Nam
đánh Pháp
cũng là một giải pháp ngây thơ. Thực vậy, thuộc địa
của Anh quá nhiều và quá béo bở, dân Anh hưởng thụ
dư thừa, dại ǵ phải đi giúp một nước Việt Nam đă bị
Pháp chiếm để mang họa vào thân? Đó là chưa nói đến
việc, cách đó một năm, NTT đă khuyên cho lính nghỉ
ngơi để Pháp giữ bờ cỏi cho ḿnh?
C̣n nước Nga th́ quá
xa đối với Việt Nam, hơn nữa, chúng ta cũng đă thấy
cách đối xử của Nga với Trung Hoa, các đế quốc rất
khăng khít với nhau để chia quyền lợi.
●
Bang giao với
Vatican
Đây là một trong hai
chủ đích chính trong bản Điều trần này của
Nguyễn Trường Tộ, c̣n 5 đề nghị kia chỉ là hoa lá
cành, nhằm che đậy hậu ư khuyên triều đ́nh thỏa hiệp
với Pháp và bang giao với Vatican để thực hiện sách
lược tôn giáo hóa Việt Nam. Điều đó cũng có nghĩa là
để cho Pháp dễ thôn tính và cai trị nước ta.
Với nhận định và chứng
minh bằng những sử liệu chính xác như trên, chúng ta
có thể đổi tên bài lục lợi từ của NTT thành
lục hại từ mới đúng nghĩa [Xem thêm, Bùi Kha,
sđd, tr. 76-112].
Bài chiêu dụ “Tám
điều cần làm”
Điều thứ nhất
NTT viết “Xin gấp rút việc sửa đổi vơ bị”.
Chúng ta cũng nhớ rằng hơn 4 năm trước, trong bài “Thiên
hạ đại thế luận” ông khuyên triều đ́nh cho lính
nghỉ ngơi để Pháp giử bờ cỏi cho ḿnh. Nay ông kêu
gọi “gấp rút việc sử đổi vơ bị”. Lính đă nghỉ
ngơi hơn 4 năm qua th́ sửa đổi vơ bị là sửa đổi cái
ǵ?Đă thế, ông lấy toàn bộ ư trong cuốn “Tôn Ngô
binh Pháp” mà không đề xuất xứ [Vui ḷng xem 6
dẫn chứng trong Bùi Kha, sđd, tr.116-118].
Các điều 2 và 3
về việc hợp tỉnh, đánh thuế xa xỉ phẩm, nắm rơ dân
số…là những đề nghị thực tế và cần. Nhưng từ lúc lên
ngôi (1802) vua Gia Long đă thực hiện các cải cách
rất sâu rộng (Xem Trần Trọng Kim, “Việt Nam sử
lược”, quyển 2, bộ Giáo dục, Trung tâm học liệu
xuất bản, 1971. Nhà xb Đại Nam, Mỹ, in lại,
tr.173-177).
Điều 4:
“Xin sửa đổi học thuật chú trọng thực dụng”
(TBC, sđd, tr.248). Đó là những đề nghị thực tiển,
cần có. Nhưng trong việc “Mở trường kỷ thuật” ở Huế
năm 1868 th́ NTT và Gm t́nh báo Gauthier dối gạt
triều đ́nh; mời mấy ông thầy giáo không có khả năng
dạy học (vui ḷng xem Bùi Kha, sđd, tr. 128-135).
Điều 5:
“Điều chỉnh thuế ruộng đất”. Điều 6
“Sửa sang lại cương giới”. Điều 7 “Nắm
rơ dân số”. Các điều nầy thực tế nhưng không mới
v́ vua Gia Long cũng đă có các chương tŕnh ấy.
Điều 8:
“Lập viện dục anh
và trại tế bần”: Điều thứ tám trong 8 điều
Nguyễn Trường Tộ đề nghị phải làm gấp là lập viện
dục anh và trại tế bần.
Nếu đứng ở vị trí lịch
sử đất nước Việt Nam ngày nay để xét, th́ các hội từ
thiện có người phương Tây nhúng tay vào không có
nhiều âm mưu như thời NTT, v́ thời đó Việt Nam bị
Pháp đô hộ, không có chủ quyền. Người nước ngoài
ngay cả thường dân họ cũng được trị ngoại pháp
quyền, chính phủ Việt Nam không có quyền xét xử, lúc
họ vi phạm luật pháp. C̣n các linh mục, giám mục lại
có quyền đặc biệt hơn nữa. Nhất là núp dưới chiếc áo
chùng thâm và viện dẫn lư do tôn giáo để bắt chẹt
Triều đ́nh vua An Nam.
Do đó, nếu mỗi tỉnh
có một viện dục anh và trại tế bần do các linh mục,
giám mục và bà xơ điều khiển th́ sẽ tạo nên một mạng
lưới gián điệp toàn cơi Việt Nam. Họ sẽ cải đạo
dân Việt khắp cùng các tỉnh. Lúc nào “đẹp trời” họ
sẽ tổ chức đồng loạt tổng nỗi dậy th́ triều đ́nh khó
ḷng dẹp yên. Mà cũng không có quân đội để dẹp v́
lính đă cho nghỉ ngơi, nếu theo lời khuyên của NTT.
Dưới đây là một số bằng chứng.
Thí dụ 1: Vụ
Xuân Ḥa
- Linh mục Ân đă dựa vào chức linh mục và dựa thế
người Pháp cho phép những kẻ mới theo đạo ở làng
Xuân Ḥa (Huế) thuê giáo dân các làng bên cạnh tự
tiện gặt các thửa ruộng đang tranh chấp.
Vài ngày sau khi gặt
lúa, gần 1.000 dân lương, vơ trang gậy gộc đến giật
lại lúa hiện đang chứa ở đ́nh; bị giáo dân chống cự,
sau một trận ẩu đả họ đă chạy trốn, bỏ lại 20 người
bị bắt (Cao Huy Thuần “Đạo Thiên Chúa và chủ
nghĩa thực dân tại Việt Nam”. Hương Quê xuất
bản, Hoa Kỳ, 1988, tr. 325).
Theo luật pháp Việt
Nam thời bấy giờ, Linh mục Ân sẽ bị đánh bằng roi
hoặc bằng gậy nhưng ông được sự che chở của Pháp. Do
đó, sự vụ kéo dài ba năm. Cuối cùng được kết thúc
bằng sự nhượng bộ của Triều đ́nh Huế do áp lực của
soái phủ Sài G̣n (CHT, Sđd, tr. 330).
Thí dụ 2: Thiên
Tân giáo án
Năm 1869, một số bà sơ
người Pháp lập cô nhi viện cạnh nhà thờ tại Thiên
Tân - Trung Hoa, nhưng không có nhiều người chịu đem
trẻ mồ côi đến. V́ vậy, mấy bà sơ thưởng tiền cho
những ai đem trẻ em đến. Hành động này làm cho dân
chúng nghi là có việc mua bán trẻ con.
Ngày 21/6/1870, quan
địa phương Trung Hoa đem kẻ t́nh nghi đến cô nhi
viện để đối chất. Sự việc chỉ có thế, nhưng viên
lănh sự Pháp tại Thiên Tân là Henri Fontanier cùng
với người bí thư là Tây Mông đến gặp quan đại thần
Trung Hoa là Sùng Hậu, với thái độ xấc xược bắn súng
dọa nạt và hạch sách Sùng Hậu.
Trên đường về, bọn
Fontanier lại dùng súng bắn vào đám đông người Hoa
và viên tri huyện Thiên Tân là Lưu Kiệt, khiến một
người tùy tùng của viên tri huyện chết.
Đám quần chúng uất hận
không dằn được nên đánh chết Fontainier, Tây Mông và
đồng bọn 20 người, đồng thời đốt nhà thờ và lănh sự
quán của Pháp. Sau đó, Pháp, Anh, Mỹ, Nga, Đức, Bỉ
và Tây Ban Nha, tất cả bảy nước liên minh với nhau
đem quân vây Thiên Tân, dọa gây chiến. Triều đ́nh
nhà Thanh phải chịu xin lỗi, bồi thường tiền, cách
chức và giáng viên tri phủ và tri huyện Thiên Tân
xuống làm lính, phạt 20 người và phải xử tử 20 người
Hoa khác để làm vừa ḷng Pháp và các nước (theo
The New Encyclopedia Britannica, Helen Hemingway
Benten, Publisher 1973-1974. Cuốn 7, tr. 770.
Đây là cuốn Bách khoa đại tự điển bằng chữ
Nho.
Thí dụ 3:
Năm 1850 ở Trung Quốc có loạn Thái B́nh Thiên Quốc
với đạo quân Giê Su, Hồng Tú Toàn chỉ huy con chiên
đánh chiếm nhiều tỉnh.
Thí dụ 4:
Lê Văn Khôi, con nuôi Lê Văn Duyệt, chiếm toàn tỉnh
Gia Định năm 1835. Giáo sĩ Marchand (cố Du) đóng vai
cố vấn và yểm trợ với âm mưu thiết lập một Vương
quốc Công giáo ly khai.
Thí dụ 5:
Thời gian 1872, tại Bắc Kỳ, Tạ Văn Phụng được các
giáo sĩ đổi tên thành Lê Duy Phụng rồi cùng với giáo
dân nổi loạn chống lại Triều đ́nh núp dưới chiêu bài
“Khôi phục nhà Lê”.
Thí dụ 6:
Ngay cả sau khi NTT chết, Linh mục Trần Lục, quản
xứ Phát Diệm, năm 1886 tiếp viện cho quân Pháp 5.000
giáo dân. V́ vậy, chiến lũy Ba Đ́nh của anh hùng
Đinh Công Tráng bị thất thủ (...père Tran Luc, curé
de Phát Diệm?Celui-ci avec la bénédiction de Mgr.
Puginier vint à la rescousse des Francais avec 5000
chrétiens. Et Ba Dinh fut pris (Linh mục Trần Tam
Tĩnh trong cuốn “Thập giá và lưỡi gươm” (Dieu
et Casar)), Paris 10. 1978, pp. 41-42).
Hiện tượng núp bóng
tôn giáo cũng được công sứ Bonnal cho biết: “Khi
một giáo sĩ đă thiết lập được một xứ đạo trong
một làng rồi th́ chuyện ǵ sẽ xảy ra? Người bản xứ
từ chối không đóng thuế, và tuyên bố không thừa nhận
chính quyền nào ngoài chính quyền của ông giáo sĩ,
là người đích thân dạy cho giáo dân không thừa nhận
chính quyền nào ngoài chính quyền của giám mục...”(Nguyễn
Xuân Thọ, Sđd, tr. 360-361).
Giám mục Puginier cũng nói thẳng:
� “Không có các
giáo sĩ và giáo dân th́ người Pháp cũng giống
như cua bị bẻ găy hết càng”(Sans les
missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier,
les Francais seraient comme les crabes auxquels on
aurait cassé toutes les pattes).
Hành động của giáo sĩ
người Tây và giáo dân như thế mà Nguyễn Trường Tộ
lại đề nghị mỗi tỉnh mở một viện mồ côi và nhà dưỡng
lăo, rồi lại nhờ ông t́nh báo Gauthier cử giáo sĩ
đến cai quản. Giáo sĩ sẽ đổi đạo dân trong vùng, sau
đó hô hào con chiên tổng nổi dậy cướp chính quyền
toàn cơi Việt Nam th́ Triều đ́nh vô phương đối phó.
Hậu ư của Nguyễn
Trường Tộ sau bức màn của bản Điều trần này là ǵ?
Ông đi ṿng vo tam
quốc giả vờ đề nghị chỉnh trang cái này, cải cách
cái nọ, giọng văn nhiều chỗ trông có vẻ thành khẩn
giống như có ḷng yêu tổ quốc. Nhưng chủ tâm không
phải cái đó, mà thâm ư là đề nghị Triều đ́nh mời
hoặc bổ nhiệm mỗi tỉnh một ông linh mục hay giám
mục, để thực hiện chương tŕnh Ki Tô giáo và Pháp
hóa đất Việt theo kế hoạch của Puginier và của
Gauthier (thầy và cố vấn của Nguyễn Trường Tộ). Kế
hoạch này núp dưới chiêu bài viện dục anh và trại
tế bần. Giả thiết NTT không có hậu ư xấu, nhưng ông
tự khoe là cái ǵ cũng biết, th́ ông phải hoàn toàn
chịu trách nhiệm những ư kiến tai hại của ḿnh.
Nguyễn Trường Tộ c̣n
đề nghị triều đ́nh đào một con kênh từ Hải Dương vào
kinh đô Huế dài khoảng 800 km. Dụng cụ và phương
tiện ngày nay mà cũng không thể thực hiện được huống
nữa là thời bấy giờ. Phải chăng kế sách vô t́nh, hay
có hậu ư của việc đào kênh nầy, là để phu dân phục
vụ khổ cực th́ sẽ có một Loạn Chày Vôi khác
chống lại Triều đ́nh.
Kế hoạch ba mặt giáp
công nầy vua quan Việt Nam làm sao chống đỡ nổi: Bên
ngoài Pháp đánh vào, bên trong phu đào kênh đánh ra.
Tại các tỉnh, linh mục và giám mục hô hào con chiên
nổi dậy chiếm các công sở, sử dụng khí giới tối tân
của thực dân th́ mặc sức tha hồ cướp của giết người.
Đây là một trong những trọng tâm chính của bản Điều
trần Tám điều lợi cần làm gấp của Nguyễn
Trường Tộ.
Ngoài ra, chúng ta nên
thấy rơ tâm chất, kiến thức và phương tiện canh tân
của NTT để đánh giá cho đúng con người núp bóng canh
tân nầy.
●
TÂM:
* Ngày 16.10.1858, NTT
cùng Gm t́nh báo Gauthier và các giáo sĩ Pháp đến
cửa Mành sơn Đà Nẵng cùng nhau làm áp lực để Pháp
đánh Huế cho chóng dứt điểm. Bị Đô đốc de Genuily
đuổi đi Hồng Kông [TBC, sđd, tr.22].
* Năm 1861 theo lời
mời của phó Đô đốc Charner, NTT cùng với Gm t́nh báo
Gauthier về Sài g̣n “để giúp mở rộng vùng chiếm
đóng” [TBC, như trên].
* Lộng giả thành chơn,
núp dưới các cụm từ hoa mỹ Canh tân, đổi mới,
thực dung v.v..để cứu vớt t́nh trạng nguy
khốn của quân đội thực dân (Nguồn: trong bài
Thiên hạ đại thế luận).
* Năm 1868 viết thư
ngăn cản triều đ́nh cử phái bộ sang Pháp tố cáo La
Grandière để đ̣i lại 3 tỉnh miền Tây bị Grandière
chiếm bất hợp pháp (Nguyễn Thế Anh, Việt Nam thời
Pháp đô hộ, Lữa thiêng xuất bản tr.54, 58-60).
(c̣n nhiều nữa)
● -TRÍ:
Tự khoe, từ cái cao
của thiên văn, cái phiền toái của nhân sự, luật
lịch, binh quyền… đều biết hết (chiêu dụ số 3). Tại
sao cóp ư binh thư đồ trận của Tôn Tử lại c̣n không
đề xuất xứ?. Thân cận nhau gần 20 năm tại sao không
biết thầy ḿnh, Gm Gauthier, là một tên t́nh báo cao
cấp của Pháp và Vatican? Chỉ một một việc nầy thôi
cũng đủ để biết NTT là con người như thế nào rồi!
- PHƯƠNG TIỆN:
Canh tân đất nước có 4 ông linh mục Việt gian là
Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Nguyễn Lâu và NTT (TBC,
tr. 21-22). Cùng với ông t́nh báo Gauthier dối trá
trong việc mở trường kỷ thuật ở Huế, v́ mấy ông giáo
sĩ Pháp mà NTT và Gauthier mời về không có khả năng
dạy học (TBC, sđd, tr. 49-50).
Tóm lại,
Theo NTT, việc Pháp
chiếm Việt Nam: do Thượng đế an bày, không thể cưởng
lại được. Do đó, để Pháp giử bờ cỏi cho ḿnh!
Cố vấn:
Có ông Giám mục t́nh báo cao cấp Gauthier.
Thực hiện chương
tŕnh canh tân:
Có 4 ông linh mục Việt gian.
Mở trường kỷ thuật:
NTT và Gauthier đă mời được mấy ông giáo sĩ không có
kiến thức.
Lực lượng an ninh:
Lính đă bỏ súng xuống và cho nghỉ từ lâu rồi.
Thật là một chương
tŕnh CANH TÂN tuyệt hảo của Nguyễn Trường Tộ, có
thể chê vào đâu được nữa không?
Bùi Kha,
29.2.2012
* Bài viết của ông
Giáp Văn Dương 18 tháng trước (theo thông tin: Admin
gửi Thứ Bảy, 28/08/2010) xem
http://www.giapvan.net/2010/08/hoc-gi-tu-nguyen-truong-to.html.