Những Ngụy Biện Của Các Nhà Biện Giải TCG
Chống Phá Thuyết Tiến Hóa
 

Trần Tiên Long

 

Richard Feynman (1918-1988): Nếu bạn nghĩ khoa học là phải tuyệt đối
chắc chắn th́ đó là sự sai lầm từ phía bạn.

 

* * *

 

Ngày nay, những lập luận của các nhà biện giải VN cho Thiên Chúa Giáo (TCG) vẫn c̣n tiếp tục lập lại những thứ đồ phế thải, sản phẩm của những thủ đoạn mánh mung chống phá thuyết tiến hóa hơn 100 năm qua trong cuộc chiến giữa tôn giáo và khoa học. Mặc dù cuộc chiến này đă kết thúc bằng những phán quyết của các ṭa án, và bằng những bản báo cáo, tuyên cáo, nhận định chung… của cộng đồng khoa học trên khắp toàn thế giới, các nhà biện giải VN vẫn ngày đêm quảng bá những thứ đồ phế thải này vào trong các diễn đàn công cộng, hầu mong tiếp tục phục vụ chính sách ngu dân của TCG thời Trung Cổ để giữ ǵn và lôi kéo các tín đồ, bất chấp cả việc xuyên tạc, bóp méo sự thật.

Mục đích của bài viết này là để trả lời cho những chỉ trích sai lầm của những nhà biện giải cho TCG. Thật rất dễ dàng nhận ra ngay rằng các lập luận của họ hoặc cố t́nh dựa trên những ngụy biện để tung hỏa mù, gây ngộ nhận đối với quăng đại quần chúng có tŕnh độ kiến thức trung b́nh về khoa học, hoặc vô t́nh v́ không nắm vững được vấn đề tŕnh bày nên đă góp phần vào việc reo rắt những sai lầm làm đầu độc truyền thông. Nhưng dù vô t́nh hay cố ư, việc chủ tâm bảo vệ trong vô vọng những tín điều và giáo lư lỗi thời của TCG vẫn là động cơ rơ nét, làm cản trở bước tiến của khoa học; bởi v́ mục đích cuối cùng của những nhà biện giải TCG không phải là phục vụ cho chân lư, nhưng là phục vụ cho tôn giáo của họ.

Dĩ nhiên, người viết cũng ư thức được rằng rồi đây họ sẽ dùng đến những thủ đoạn bẩn thỉu như mạt sát, chửi bới, chụp mũ, tấn công tư cách của người viết như họ vẫn thường làm. Cái mũ chống phá tôn giáo hay bưng bô Cộng Sản là những thứ họ hay dùng để đội lên đầu bất cứ những ai có quan điểm bất lợi cho tôn giáo của họ. Cũng bởi v́ họ vẫn chưa phân biệt rạch ṛi giữa sự chống phá những điều sai lầm, mê tín dị đoan, cho mục đích xây dựng xă hội càng ngày càng hoàn thiện hơn, với sự chống phá vu vơ, vô duyên cớ. “Không phải điều chúng ta không biết sẽ tác hại, mà tác hại chính là điều chúng ta tưởng đă biết nhưng thực ra chúng ta không biết.” — Will Rogers.

Như vậy, chúng ta sẽ lần lượt trả lời những câu hỏi sau đây:

·        Có phải tiến hóa đơn giản chỉ là một lư thuyết?

·        Có phải loài người phát xuất từ loài khỉ?

·        Có phải tiến hóa nghịch với định luật II của Động Nhiệt Học?

·        Phải chăng có những thứ phức tạp không thể đơn giản hơn (Irreducible Complexity)?

 

A.    Có Phải Tiến Hóa Chỉ Đơn Giản Chỉ Là Một Lư Thuyết?

Người ta thường nhập nhằng cho rằng thuyết tiến hóa cũng giống như thuyết sáng tạo, chỉ là một lư thuyết chưa được chứng minh, không phải là một định luật chính xác bất di bất dịch như 2+2=4.  Đă là thuyết th́ có thể đúng và cũng có thể sai.

Đây là một lối ngụy biện dựa trên những định nghĩa sai lầm mang ra ngoài văn cảnh phạm trù của khoa học và cũng là lối ngụy biện dựa trên cách tŕnh bày một nửa sự thật, bởi v́ một nửa chân lư không phải là chân lư.

Thực ra, tiến hóa vừa là một lư thuyết khoa học vừa là một sự kiện, cũng giống như trọng lực (gravity). Nếu có những tranh căi qua lại giữa các nhà khoa học, chẳng hạn như tranh căi về sự chọn lọc tự nhiên (natural selection) hay sự ngẫu biến (mutation), th́ đó chỉ là vấn đề liên quan tới cách thức giải thích, về cơ chế của sự kiện tiến hóa. Những nhà biện giải cho TCG đang lẫn lộn giữa hai vấn đề: một bên là liệu có sự tiến hóa xảy ra hay không, nghĩa là liệu có sự thay đổi về “genes” để di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác rồi tiến hóa thành những chủng loại khác, và bên khác là nếu có sự tiến hóa th́ làm sao để giải thích sự kiện tiến hóa đó.

Hàn Lâm Viện Khoa Học Quốc Gia Hoa Kỳ (U.S. National Academy of Sciences), một tổ chức cao cấp nhất và có tiếng nói quyết định trong các vấn đề khoa học, đă công khai xác quyết năm 1998 rằng, “Trong cộng đồng khoa học, không c̣n có sự tranh luận về sự tiến hóa có xảy ra hay không, và không có bằng chứng nào chứng tỏ là sự tiến hóa đă không xảy ra.” [1]

1.     Vấn đề sự kiện

Douglas Futuyma định nghĩa “sự kiện là một giả thuyết đă được hỗ trợ mạnh mẽ bằng các chứng cớ mà chúng ta giả định là chân thật và hành động theo như chúng đă là chân thật.” [2]

H. J. Muller trong cuốn One Hundred Years Without Darwin Are Enough đă giải thích:

“Không có một ranh giới rơ rệt giữa sự phỏng đoán, giả thuyết, lư thuyết, nguyên lư, và sự kiện, nhưng chỉ là sự khác biệt về mức độ xác suất của ư tưởng. Khi chúng ta gọi cái này là một sự kiện th́ chúng ta chỉ muốn bảo rằng tính xác suất của nó th́ vô cùng cao, cao đến nổi chúng ta chẳng cần phải nghi ngờ ǵ về nó nữa và sẳn sàng hành đồng phù hợp theo nó. Bây giờ trong cách dùng từ ngữ sự kiện này, cách dùng đúng là xem tiến hóa như một sự kiện.” [3]

Hàn Lâm Viên Khoa Học Quốc Gia Hoa Kỳ đưa ra một khẳng định như sau về sự kiện:

“Các nhà khoa học hay dùng từ ‘sự kiện’ để miêu tả sự quan sát. Nhưng họ cũng dùng từ ‘sự kiện’ cho một điều ǵ đó đă được thử nghiệm và quan sát quá nhiều lần đến nổi không c̣n có lư do ǵ để phải tiếp tục thử nghiệm và t́m kiếm thêm các chứng cớ. Tiến hóa xảy ra theo ư nghĩa này là một sự kiện. Các nhà khoa học không c̣n thắc mắc liệu có sự tiến hóa đă xảy ra hay không bởi v́ chứng cớ về nó th́ quá mạnh mẽ.”  [4]

Một trang nhà của các Hàn Lâm Viện Quốc Gia cũng có một định nghĩa tương tự như sau:

“Trong khoa học, sự kiện tiêu biểu được xem như là sự quan sát, đo lường, hoặc một h́nh thức khác của chứng cớ được kỳ vọng xảy ra theo cùng cách thức như ở những trường hợp tương tự. Mặc dù vậy, các nhà khoa học cũng dùng từ ‘sự kiện’ để chỉ định một sự giải thích khoa học đă được kiểm chứng và khẳng định quá nhiều lần đến nổi không c̣n lư do ǵ để phải tiếp tục kiểm chứng hoặc t́m kiếm thêm chứng cớ.”  [5]

Stephen J. Gould, một nhà cổ sinh vật học, cũng bảo rằng sự kiện khoa học không phải là sự “tuyệt đối chắc chắn”. Lư thuyết và sự kiện là hai phạm trù riêng biệt, không nên lẫn lộn. Ông viết:

 “Tiến hóa là một lư thuyết. Nó cũng là một sự kiện. Sự kiện và lư thuyết là những thứ khác nhau, không phải là những mức thang đẳng cấp về sự chắc chắn. Các sự kiện là những dữ kiện trong thế giới. Các lư thuyết là những cấu trúc ư tưởng để cắt nghĩa và giải thích các sự kiện. Sự kiện không biến mất khi các nhà khoa học tranh luận về những lư thuyết đang cạnh tranh nhau để giải thích chúng. Lư thuyết về lực hút của Einstein đă thay đổi lư thuyết của Newton, nhưng quả táo đă không nằm giữa chừng trong không khí để chờ đợi kết quả. Và loài người đă tiến hóa từ các ông tổ giống như loài khỉ h́nh người chẳng phải v́ cơ chế Darwin đă tŕnh bày hoặc v́ một cơ chế nào khác c̣n đang phải khám phá.” [6]

Như vậy, trái táo rụng xuống đất là một sự kiện, có thật, một chân lư. Nếu không có Newton đưa ra lư thuyết giải thích và sau này được Einstein hoàn thiện lư thuyết hơn th́ trái táo vẫn đă và đang tiếp tục rụng xuống đất. Cũng vậy, cho dù có hay không thuyết tiến hóa của Charles Darwin, muôn loài có sự sống trên trái đất vẫn đă và đang tiếp tục tiến hóa; nghĩa là nếu có đủ thời gian, chúng sẽ có biến đổi về “genes”, di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, rồi cuối cùng trở thành những chủng loại khác. Mọi loài có sự sống đều xuất phát từ một ông tổ chung.

Sự kiện th́ bao giờ cũng vẫn là sự kiện. Nếu không có các nhà khoa học giải thích th́ vẫn có sự kiện tiến hóa, c̣n nếu không có các nhà biện giải cho TCG th́ đă không có thiết kế thông minh. Đó cũng là lư do giả thuyết sáng tạo hay phó sản của nó là lập luận thiết kế thông minh chẳng có chút liên hệ ǵ với Phật Giáo nếu hiểu Phật Giáo là một tôn giáo không có chỗ đứng của đấng Tạo Hóa.

2.     Vấn đề lư thuyết

Chúng ta nên có sự phân biệt rạch ṛi về ư nghĩa của từ lư thuyết (theory) dùng trong ngôn ngữ hằng ngày và từ lư thuyết dùng trong khoa học. Cũng một từ lư thuyết nhưng lại bao hàm hai phạm trù khác nhau. Trong ngôn ngữ b́nh dân hằng ngày, từ lư thuyết có nghĩa là một giả thuyết, một sự phỏng đoán hợp lư để giải thích một biến cố hay một sự kiện nào đó nhưng chưa có sự kiểm chứng. Nhưng trong ngôn ngữ của các nhà khoa học, lư thuyết không phải là đoán ṃ, không phải là sự linh cảm vu vơ. Nó phải được hỗ trợ bằng những chứng cớ hẳn hoi để giải thích những điều chúng ta quan sát, có thể kiểm chứng được, và nhất là có thể đưa ra được những tiên đoán táo bạo, xác định được những điều ǵ sẽ phải xảy ra hoặc không thể xảy ra.

Trong bài THUYẾT TIẾN HÓA HAY THỐI LÙI, ông Francis Dương viết: 

“Ai có học qua Trung Học cũng biết Thuyết Tiến Hóa của Darwin.  Đă gọi là ‘thuyết’ th́ có thuyết hoàn toàn sai, có thuyết đúng ít, sai nhiều, có thuyết đúng nhiều, sai ít.  Những thuyết hoàn toàn đúng th́ không c̣n gọi là thuyết nữa mà là định luật bắt buộc phải tin như 2+2=4.  Dù sao, TIẾN HÓA theo DARWIN cũng vẫn gọi là ‘thuyết.’" 

Và ông Bắc Kỳ Di Cư Chu Tất Tiến cũng viết trong bài “TÔI KHÔNG THEO PASCAL”: MỘT TIỂU LUẬN ĐẦY TÍNH NGỤY BIỆN:

“Từ bao giờ mà thuyết Tiến Hóa Khoa Học đánh đổ Thuyết Sáng Tạo duy thần? Trong môi trường nào? Tài liệu nào? Trần Tiên Long có biết sự khác biệt giữa ‘thuyết’ (theory) và ‘luật’ (law) không? Khi đă gọi là ‘thuyết’ th́ chẳng có ‘thuyết’ nào có thể đánh đổ ‘thuyết’ nào cả. Chỉ có ‘luật’ mới thực sự là những điều mà con người bắt buộc phải tuân theo. C̣n ‘thuyết’ th́ mạnh ai nấy giữ. Khi nói ‘thuyết Tiến hóa’ đánh đổ ‘Thuyết Sáng Tạo’ th́ thiệt là ‘hết thuốc chữa’ cho cái bệnh hay nói chữ của Trần Tiên Long. Trong trường học Mỹ hiện nay, cả hai ‘thuyết’ đều hiện diện b́nh đẳng trong các bài học (Evolution theory vs Creation theory). Chưa hề có một ‘luật’ nào cấm dậy ‘thuyết sáng tạo’ cả! Không có một giáo sư vô thần nào dám tuyên bố trong trường học là ‘thuyết sáng tạo là một tiền đề giả định hoang tưởng’ như Trần Tiên Long viết! Nói như thế th́ lập tức chuẩn bị cuốn gói ra khỏi trường đi th́ vừa!”

Hăy bỏ qua lối viết mạt sát và nguyền rủa của hai nhà biện giải VN tiêu biểu nói trên nếu đọc giả có dịp đọc qua toàn bài, ở đây, chỉ xin bàn về sự sai lầm của họ khi họ cố gắng chống phá khoa học để bảo vệ cho tôn giáo của họ. Viết như vậy chứng tỏ họ không hiểu có sự khác biệt về ư nghĩa của từ lư thuyết dùng trong ngôn ngữ hằng ngày và dùng trong lĩnh vực khoa học như đă tŕnh bày ở trên, và họ cũng không hiểu rơ bản chất khác biệt giữa lư thuyết và định luật. Riêng ông BKDC CTT lại không biết được có những lư thuyết đáng phải bị vứt bỏ v́ những khám phá mới, và có vẻ  như ông cũng chưa đọc bài Những Thủ Đoạn Mánh Mung Chống Phá Thuyết Tiến Hóa [7] mà tôi đă đưa vào diễn đàn để chứng minh những điều mà ông đang cố gắng chối bỏ. Cả hai tác giả đă cố ư nhập nhằng đồng hóa một lư thuyết đă được toàn thể cộng đồng khoa học chứng thực với một giả thuyết vu vơ của thần thoại hoang tưởng.

C̣n có một sự khác biệt quan trọng nữa giữa từ “proof” và từ “evidence” mà khi chuyển sang Việt ngữ đều được dịch là “bằng chứng” hay “chứng cớ”, dễ làm đọc giả hiểu lầm. Trong các khoa học tự nhiên (natural sciences), người ta không làm công việc chứng minh (proove) như trong các khoa học thuần túy (pure sciences), chẳng hạn như Toán Học hoặc Luận Lư Học. Trong khoa học tự nhiên, người ta làm công việc trưng ra các chứng cớ (show evidences) để giải thích sự kiện, hỗ trợ cho lư thuyết, chứ không phải làm công việc chứng minh như trong Toán Học. Họ khẳng định một lư thuyết có giá trị (validity) bằng các chứng cớ, chứ họ không chứng minh một lư thuyết đúng hay sai. Mục đích của lư thuyết là để giải thích, trong khi mục đích của định luật là để miêu tả. Bởi v́ mỗi thứ được dùng để làm những công việc khác nhau nên lư thuyết không bao giờ trở thành một định luật. Nó phải đứng trên và bao trùm các định luật. Lư thuyết và định luật là hai phạm trù hoàn toàn khác biệt. Đ̣i hỏi lư thuyết phải làm công việc của định luật là một đ̣i hỏi vô trí, chỉ có mục đích tung hỏa mù, dèm pha khoa học. Bởi v́ không hiểu được sự khác biệt này, những nhà biện giải VN cho TCG đă đồng hóa sai lầm một bộ môn thuộc khoa học tự nhiên với các bộ môn thuộc khoa học thuần túy. Thuyết tiến hóa của Sinh Vật Học thuộc khoa học tự nhiên, không phải thuộc khoa học thuần túy như Toán Học hoặc Luận Lư Học.

Triết gia Sir Karl Popper, trong một tiểu luận có tựa Vấn Đề Của Sự Suy Diễn/The Problem of Induction, đă xác định rằng:

“Trong khoa học, không có ‘kiến thức’ theo nghĩa mà Plato và Aristotle đă hiểu về thế giới, theo nghĩa hàm ư về một sự chung cuộc; trong khoa học, chúng ta không bao giờ có đủ lư do để tin rằng chúng ta đă đạt được chân lư… Hơn nữa, quan điểm này c̣n có nghĩa rằng chúng ta không làm công việc chứng minh trong khoa học (dĩ nhiên ngoại trừ Toán Học thuần túy và Luận Lư Học). Trong các khoa học thực nghiệm, những bộ môn cung cấp cho chúng ta tin tức về thế giới chúng ta đang sống, không có sự chứng minh theo nghĩa chứng minh một lập luận để đạt một lần và vĩnh viễn tính đúng đắn của một lư thuyết.” [8]

Một lư thuyết được gọi là khoa học th́ phải có các chứng cớ được xác định bằng các cuộc thí nghiệm, có thể lập lại bởi bất cứ người nào khác, để chứng thực là một lư thuyết có giá trị. Yếu tố chính yếu làm nên sự khác biệt giữa giả thuyết và lư thuyết là sự việc có thể kiểm chứng. Ngoài yếu tố kiểm chứng này, nó c̣n phải đưa ra được những tiên đoán rơ ràng và mạo hiểm. Nó liên kết các sự kiện của một vấn đề để giải thích sao cho phù hợp với những quan sát, và cuối cùng có thể đưa ra những tiên đoán rơ ràng, riêng biệt, và táo bạo.

Cho dù nó có thể giải thích mọi trường hợp quan sát, nó vẫn chưa phải là một lư thuyết khoa học khi nó không thể tiên đoán được những ǵ không thể xảy ra, ít ra là trên nguyên tắc. Chẳng hạn, thuyết duy ngă (solipsism) định rằng toàn thể vũ trụ chỉ là sản phẩm của sự tưởng tượng, có thể giải thích được mọi điều, nhưng lại không đưa ra được tiên đoán những ǵ không thể có, bởi v́ tất cả mọi quan sát đều được giải thích đồng đều như nhau nên không thể được gọi là một lư thuyết khoa học.

Trong một cuốn sách viết về thuyết tiến hóa, Douglas J. Futuyma đă có lời phê b́nh như sau:

“Nên nói thêm một chút về ‘thuyết tiến hóa’mà phần đông đều cho rằng mọi loài sinh vật đă tiến hóa từ các ông tổ chung. Trong ngôn ngữ hằng ngày, ‘lư thuyết’ thường có nghĩa là một giả thuyết hoặc ngay cả một sự phỏng đoán đơn giản. Nhưng trong khoa học, ‘lư thuyết’ có nghĩa là ‘sự tuyên bố về những ǵ được xem như là những định luật chung, những nguyên lư, hoặc những nguyên nhân của một cái ǵ đó được biết đến và quan sát’, như tự điển Anh Văn Oxford đă định nghĩa. Lư thuyết tiến hóa là một chuỗi những tuyên bố nối kết nhau về sự chọn lọc tự nhiên và về những tiến tŕnh mà người ta nghĩ là nguyên nhân làm ra tiến hóa, cũng như lư thuyết về nguyên tử trong hóa học và lư thuyết về cơ học của Newton là những chuỗi tuyên bố giải thích các nguyên nhân của những hiện tượng hóa học và vật lư. Ngược lại, câu tuyên bố rằng các loài sinh vật tiến hóa từ những ông tổ chung – sự thực lịch sử của tiến hóa – không phải là một lư thuyết. Nó là một sự kiện, cũng hoàn toàn giống như sự kiện về trái đất xoay chung quanh mặt trời. Giống như hệ nhật tâm, tiến hóa đă bắt đầu như một giả thuyết, và đă đạt được mọi điều kiện của sự kiện bởi v́ chứng cớ hỗ trợ nó đă quá mạnh mẽ đến nỗi không một người nào có sự hiểu biết và không có thành kiến có thể từ chối tính đúng thực của nó. Ngày nay, không có nhà sinh học nào lại tŕnh bày một tiểu luận với tựa đề ‘Chứng cớ mới về tiến hóa’;  điều này đơn giản không phải là vấn đề từ cả một thế kỷ nay.” [9]

Như vậy, người ta không c̣n đi t́m chứng cớ về sự tiến hóa, nhưng chỉ t́m chứng cớ để hỗ trợ cho lư thuyết tiến hóa giải thích về sự kiện tiến hóa. Lư thuyết tiến hóa bằng sự chọn lọc tự nhiên của Charles Darwin hiện nay là lối giải thích khoa học tốt nhất về nguồn gốc của sự sống. Tiến hóa đă đạt mọi điều kiện, mọi tiêu chuẩn của sự kiện, giống như sự kiện quả táo rơi xuống đất. Nó đă được toàn thể cộng đồng khoa học xác nhận và là căn bản để giải thích những quan sát trong các ngành khoa học.

 

B.    Có Phải Loài Người Phát Xuất Từ Loài Khỉ?

Một trong những thủ đoạn mánh mung khác để chống phá thuyết tiến hóa khoa học của các nhà biện giải VN cho TCG là cố t́nh xuyên tạc một cách trắng trợn để làm giảm uy tín và giá trị một lư thuyết khoa học. Bảo rằng thuyết tiến hóa khẳng định “loài người có nguồn gốc từ khỉ độc hoặc đười ươi không đuôi” th́ rất phổ biến, thường bắt gặp ở nhiều tác giả biện giải tôn giáo cho mục đích nhục mạ.

Đúng hơn, thuyết tiến hóa xác quyết rằng mọi sự sống đều bắt nguồn từ một ông tổ chung (all living organisms have descended from a common ancestor, or ancestral gene pool), [10] có nghĩa là sự sống nguyên thủy bắt đầu bằng một đơn bào đơn giản rồi càng ngày càng tiến hóa phức tạp và tinh vi để chia nhánh, sinh sản thành những chủng loại khác nhau. Hiện tượng rẽ nhánh (speciation) là một phạm trù đặc biệt trong thuyết tiến hóa. Nó cho phép, nếu có đủ thời gian lâu dài, một loài sinh vật sẽ thay đổi “genes” dần dần để trở thành một chủng loại khác. Những sinh vật khác hiện nay chúng ta thấy như “khỉ độc” hoặc “đười ươi không đuôi” đều xuất phát từ những nhánh khác, mặc dù đều có chung một ông tổ. Một trong những ư tưởng cách mạng nhất của Darwin là mọi sự sống trên địa cầu đều có sự liên hệ, nối kết với nhau như các cành cây của một thân cây có sự sống ( a tree of life).

Như vậy, loài người không phải xuất phát từ loài vượn (chimpanzees) [11] hay bất cứ một loài linh trưởng (primates) nào hiện đang c̣n sống. Loài người và loài khỉ (monkeys) đều có chung một ông tổ (common ancester) sống 40 triệu năm trước. [12] C̣n loài vượn th́ có họ hàng gần với chúng ta hơn, gần hơn cả loài khỉ rất xa. Ông tổ chung của loài người và loài vượn sống từ 5 tới 8 triệu năm trước, đă tiến hóa và rẻ thành hai nhánh riêng biệt: một nhánh loài người và một nhánh loài vượn. [13] Loài người là một trong những thành phần gia đ́nh của chủng loại vượn nhân h́nh (homonidae), bao gồm cả loài vượn, loài gô-rilla và loài tinh tinh.

H́nh 1: Di tích cái đuôi c̣n sót lại của một bé gái 6 tuổi.
Những người tôm hùm với bàn chân hai ngón.

Những xương hóa thạch đă được các nhà khoa học xếp loại để xác định những loài trung gian như Ardipithecus ramidus, Australopithecus anamensis, Australopithecus afarensis, Australopithecus garhi, Kenyanthropus platyops, Kenyanthropus rudolfensis, Homo habilis,  và một số những trung gian khác ít gần gủi với loài người khôn ngoan (homo sapiens), chẳng hạn như loài australopithicenes.

Việc vô số những xương hóa thạch trung gian này chỉ được t́m thấy ở miền Đông Nam Phi Châu đă khẳng định rằng loài người và loài khỉ không đuôi (great apes) có họ hàng gần với nhau, phù hợp với điều mà Darwin đă giải thích 130 năm trước về định luật của sự phân phối theo địa lư, theo đó, những loài có vú có họ hàng gần với những chủng loại đă tuyệt chủng đều có một thời ở chung một vùng trên trái đất. [14]  Do đó, người ta chỉ có thể t́m thấy xương hóa thạch của loài khỉ không đuôi đă tuyệt chủng có liên hệ họ hàng gần với những loài vượn và loài gô-rilla hiện đang sống ở Đông Nam Phi Châu.

Chúng ta không bao giờ kỳ vọng có thể t́m thấy xương hóa thạch thuộc loài trung gian Australopithicus, Ardipithecus, hoặc Kenyanthropus ở Úc, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Nam Cực, Siberia, vùng Lưỡng Hà, hoặc ở bất cứ hải đảo nào đă tách rời khỏi lục địa Phi Châu. Nếu t́m thấy được những xương hóa thạch này ở những vùng đó th́ có nghĩa là đă phản bác được thuyết tiến hóa. Cho tới ngày hôm nay, điều này tuyệt đối chưa hề xảy ra.

 

A.   Có Phải Tiến Hóa Nghịch Với Định Luật II Của Động Nhiệt Học?

Có một lối ngụy biện khác mà các nhà biện giải cho TCG hay xử dụng để chống phá thuyết tiến hóa. Họ bảo rằng không thể có tiến hóa v́ tiến hóa th́ nghịch với định luật thứ II trong Động Nhiệt Học (Thermodynamics). Định luật này định rằng entropy càng ngày càng tăng dần trong một chu kỳ không thể quay ngược (irreversible cycle). Trong chu kỳ này, entropy là năng lượng dư thừa, vô dụng, thất thoát, làm nóng một hệ thống. Entropy có thể được giải thích nôm na là năng lượng làm mức đo cho t́nh trạng hỗn độn này. Bởi vậy, tiến hóa một ḿnh tự nó không thể làm tăng thêm tính tinh vi và phức tạp của các sinh vật. Điều mà họ không muốn nói thẳng ra là phải cần có Thiên Chúa tác động vào mọi loài th́ mới có thể làm chúng càng ngày càng thay đổi để được phức tạp và tinh vi hơn. Nếu không có bàn tay tác động của Thiên Chúa th́, cứ theo định luật thứ II của Động Nhiệt Học, thế giới càng ngày càng phải hỗn độn hơn v́ năng lượng entropy cứ tăng dần theo thời gian.

Những nhà biện giải cho TCG  khi áp dụng lập luận này chỉ càng chứng tỏ họ chẳng hiểu ǵ về Động Nhiệt Học. Mặc dù vậy, lập luận này lại rất thuyết phục đối với giới b́nh dân đại chúng không có kiến thức căn bản về khoa học.

Trước hết, nên hiểu rằng định luật thứ II không liên hệ ǵ tới mức độ phức tạp của một hệ thống hay của các loài sinh vật. Thứ đến, định luật này chỉ áp dụng cho một hệ thống khép kín (closed system). Nhưng trái đất này không phải là một hệ khép kín v́ nó luôn luôn nhận năng lượng từ mặt trời. Áp dụng định luật thứ 2 của Động Nhiệt Học vào một hệ thống mở (open system) th́ sẽ đưa đến kết quả hoàn toàn sai. [15]

Động Nhiệt Học là một bộ môn học năm thứ 3 của chương tŕnh Kỷ Sư Cơ Khí (Mechanical Engineering) nên giới b́nh dân không có căn bản về khoa học không thể có thắc mắc về một vấn đề nằm ngoài khả năng của họ. Họ chỉ biết nghe và chấp nhận dễ dàng những lập luận sai lầm của những nhà biện giải cho TCG. Đó cũng là lư do dễ hiểu tại sao những người càng có nhiều kiến thức về khoa học th́ họ càng chấp nhận thuyết tiến hóa dễ dàng hơn. Nghiên cứu thống kê năm 2009 của cơ quan PEW ghi nhận rằng có tới 97% các nhà khoa học chấp nhận con người và các loài có sự sống đều đă tiến hóa theo thời gian, trong khi chỉ có 32% đại chúng chấp nhận thuyết tiến hóa. [16]

 

B.     Phải Chăng Có Những Thứ Phức Tạp Không Thể Đơn Giản Hơn (Irreducible Complexity)?

C̣n có một lối ngụy biện khác nữa cũng rất ăn khách v́ được dựa vào khoa học, đó là lập luận cho rằng có những hệ thống thuộc sinh vật học phức tạp không thể đơn giản hơn, nghĩa là phải có nó như một toàn thể hệ thống chứ không thể có nó theo từng giai đoạn từ đơn giản tới phức tạp và tinhh vi hơn bằng tiến tŕnh ngẫu biến và sự chọn lọc tự nhiên. Một hệ thống phức tạp không thể đơn giản hơn nữa v́ nếu chỉ bớt đi một trong các phần tử cấu trúc của hệ thống th́ sẽ đưa đến kết quả toàn thể hệ thống ngưng hoạt động. Có thể nói rằng đây là lập luận chính yếu của thiết kế thông minh và đă bị cộng đồng khoa học vất bỏ, [17] xem nó như là ngụy khoa học. [18]

1.     Trong khoa học thực nghiệm

Ư niệm về sự phức tạp không thể đơn giản hơn nữa được dùng lần đầu tiên bởi Michael Behe, một giáo sư sinh hóa học. Ông định nghĩa rằng hệ thống phức tạp không thể đơn giản hơn là “một hệ thống gồm nhiều phần tử ăn khớp, tác động qua lại để đóng góp vào chức năng căn bản mà nếu lấy đi một trong những phần tử đó th́ kết quả sẽ làm hệ thống ngưng hoạt động.” [19]  Một trong các thí dụ Behe trưng ra như là bằng chứng để hỗ trợ lập luận này là thí dụ hệ thống flagellum được các nhà biện giải cho TCG ưng ư và xử dụng nhiều nhất. Nhưng các nhà khoa học sinh hóa đă chứng minh rằng hệ thống flagellum thực sự có thể tiến hóa được, [20] và những thí dụ của Behe đưa ra chỉ là lối lập luận ngụy biện v́ phải kêu gọi tới sự ngờ vực (appeal to incredulity). [21] Chính đó là Thượng Đế của các lỗ trống.

H́nh 2: Biểu đồ flagellum được đăng ở nhiều trang điện báo chống phá thuyết tiến hóa
và ở tờ b́a của cuốn No Free Lunch của William Dembski.

Flagellum được xem như là động cơ bám dính xung quanh màng vỏ của con vi khuẩn để kích hoạt con vi khuẩn hoạt động. Thông thường, người ta hay hiểu lầm vi khuẩn là những thứ kư sinh trùng ăn bám, có hại cho sức khỏe. Tuy nhiên, các nhà khoa học khẳng định có nhiều loại vi khuẩn không những có lợi mà c̣n cần thiết cho các tế bào. Các vi khuẩn làm hại tế bào tiết ra một loại protein độc hại có thể xâm nhập qua màng vỏ của tế bào để giết tế bào. Một hệ thống có phận sự bài tiết chất độc, được gọi tắt là TTSS (type III secretory system), đă được các nhà khoa học khám phá, là một phần tử của hệ thống flagellum. Những thành quả do các nghiên cứu độc lập của các nhà khoa học vô t́nh đă phản bác thí dụ flagellum của Behe.

 

H́nh 3: Cấu trúc của TTSS giống như phần cuối của flagellum ở h́nh 2.
Sự giống nhau này chứng minh rằng flagellum c̣n có thể
đơn giản hơn nữa mà vẫn hoạt động b́nh thường.

 

Như vậy, bảo rằng flagellum không thể đơn giản hơn đă mâu thuẫn với sự kiện là flagellum đă bị cắt bỏ để chỉ c̣n phần tử TTSS nhưng vẫn có thể hoạt động như flagellum. Một cấu trúc quá phức tạp được cho là không thể đơn giản hơn đă được đơn giản hơn nữa.

Vào năm 2005, trong vụ kiện Kitzmiller v. Dover Area School mà Michael Behe có dịp tŕnh bày bằng chứng về sự phức tạp không thể đơn giản hơn, ṭa án đă phán quyết “Quan điểm của Giáo sư Behe về sự phức tạp không thể đơn giản hơn đă bị phản bác bởi nhiều bài nghiên cứu của các đồng nghiệp và đă bị cộng đồng khoa học bác bỏ” [22]

2.     Trong luận lư học

Thực ra, lối lập luận dựa trên sự phức tạp không thể đơn giản hơn này chỉ là lập lại lập luận kêu gọi tới sự vô minh, nghĩa là chúng ta cứ việc mang một siêu sinh vật (Thượng Đế) ra một cách vô tội vạ để làm nguyên nhân cho những ǵ chúng ta chưa biết giải thích. Chẳng hạn, ngày xưa chúng ta chưa biết giải thích các hiện tượng sóng thần, núi lửa, động đất th́ chúng ta có thủy thần, sơn thần. Ngày nay, những hiện tượng này đă được khoa học giải thích một cách tường tận nên chẳng c̣n ai tin vào sự hiện hữu của những thần thánh này. Đó chính là Thượng Đế của những lỗ trống, và các lỗ trống là những thứ không thể nào phủ lấp hết v́ chúng ta cứ việc tạo thêm ra rất dễ dàng.

Khi Machael Behe trưng ra thí dụ về hệ thốn phức tạp flagellum không thể đơn giản hơn nữa bởi v́ nếu thiếu một trong những thành phần cấu tạo hệ thống th́ hệ thống sẽ vô dụng, th́ chúng ta chỉ có một sự phức tạp mà khoa học cần phải giải thích. Nhưng khi các nhà khoa học t́m ra hệ thống TTSS như đă tŕnh bày ở trên th́ tự nhiên chúng ta lại có hai sự phức tạp cần phải đối đầu. Cũng vậy, khi các nhà khoa học chưa giải thích được các lỗ trống của các xương hóa thạch chứng minh những thời kỳ chuyển tiếp của các chủng loại th́ người ta phải dựa vào lập luận thiết kế thông minh để giải thích. Nhưng khi các nhà khoa học đă t́m thấy vô số những xương hóa thạch để giải thích những thời kỳ chuyển tiếp, kể cả những xương hóa thạch giải thích nguồn gốc của loài cá voi, th́ các nhà biện giải cho TCG lại tiếp tục ồn ào dèm pha khoa học. Nếu trước đây chỉ có một lỗ trống cần phủ lấp th́ bây giờ lại có tới hai lỗ trống cần phủ lấp. Và cứ như vậy th́ khoa học sẽ đời đời chẳng có cách nào phủ lấp hết mọi lỗ trống.

Lập luận dựa trên một siêu sinh vật để giải thích một điều chưa biết không phải là một sự giải thích đúng nghĩa, bởi v́ mang một nguyên nhân quá phức tạp mà chúng ta không thể giải thích được (Thượng Đế) để giải thích một nguyên nhân đơn giản hơn càng làm cho điều chúng ta muốn giải thích tối tăm thêm. Câu hỏi ai sinh ra Thượng Đế vẫn chưa được trả lời.

Richard Dawkins lư luận rằng: “Đối với tôi, điều quan trọng là, ngay cả nếu nhà vật lư cần qui định một tối thiểu không thể nhỏ hơn nữa, là thứ đă hiện hữu từ buổi ban đầu để vũ trụ có thể khởi sự, cái tối thiểu không thể nhỏ hơn đó chắc chắn phải đơn giản kinh khủng. Do định nghĩa, sự giải thích dựa trên những tiền đề đơn giản th́ hợp lư và thỏa măn hơn sự giải thích dựa trên những tiền đề phức tạp bắt đầu bằng một xác suất không thể xảy ra. Và bạn không thể có thứ ǵ phức tạp hơn một Thượng Đế toàn năng.” [23]

 

Kết luận

Cần phải công nhận rằng mặc dù lư thuyết tiến hóa khoa học không tuyệt đối phủ bác sự hiện hữu của Thượng Đế, được hiểu như đấng Sáng Tạo muôn loài và muôn vật, nhưng nó đă phủ bác hoàn toàn ư niệm Thiên Chúa của Thiên Chúa Giáo, một siêu sinh vật toàn năng, v́ thương yêu loài người nên hay can thiệp vào những công việc của trần thế bằng các phép lạ. Những định luật bất biến của thiên nhiên lại thường xuyên bị Thiên Chúa thay đổi do lời van xin hoặc hối lộ của con người. Mọi sự sống có được là do tiến hóa dần dần bằng sự chọn lọc tự nhiên, chứ không phải do một siêu sinh vật nào đó tạo dựng tức thời.

Richard Dawkins lập luận như sau:

“Có một sự thôi thúc để lập luận rằng, mặc dù không cần Thượng Đế để giải thích sự tiến hóa của một trật tự phức tạp một khi vũ trụ đă khởi động với những định luật vật lư căn bản của nó, chúng ta vẫn cần đến một Thượng Đế để giải thích nguồn gốc của mọi sự vật. Ư tưởng này không có dành cho Thượng Đế làm nhiều điều: chỉ việc tạo ra vụ nổ lớn rồi ngồi đó và chờ đợi mọi sự xảy ra. Nhà vật lư và hóa học Peter Atkins, trong cuốn sách viết rất tuyệt của ông, Sự sáng tạo, quy định một Thượng Đế lười biếng đă làm việc ít nhất có thể để khởi sự đủ mọi thứ. Atkins giải thích từng bước của lịch sử vũ trụ tiếp nối nhau bằng định luật vật lư đơn giản. Như vậy, ông đă xén dần số lượng việc làm mà một Thượng Đế lười biếng cần làm và cuối cùng kết luận rằng, thực vậy, Thượng Đế chẳng cần để làm bất cứ một điều ǵ.” [23]

Như vậy, dưới ánh sáng của thuyết tiến hóa khoa học, những giáo lư căn bản của Thiên Chúa Giáo có nguồn gốc từ hai cuốn Kinh Thánh, Cựu Ước và Tân Ước, qua những câu chuyện như Vườn Địa Đàng với tội tổ tông, nạn lụt đại hồng thủy, Thiên Chúa xuống thế làm người để chuộc tội tổ tông cho thiên hạ, đức Maria đồng trinh vô nhiễm nguyên tội, phục sinh, thăng thiên, v/v… đă trở thành huyền thoại, vô nghĩa mà rất nhiều tôn giáo cổ xưa nay chỉ c̣n là bóng mờ của lịch sử cũng đều có. Tất cả chỉ là những mánh mung ngụy tạo ở thời Trung cổ của Giáo Hội Công Giáo La Mă để kềm chế con người vào ṿng nô lệ của tâm linh.

Sự thành công và phát triển của khoa học đă bắt buộc Giáo Hoàng Benedict XVI phải tuyên bố rằng “Giáo hội đă chấp nhận tiến hóa như là một lư thuyết khoa học” và Giáo Hoàng John Paul II vào tháng 10 năm 1996 cũng đă tuyên bố “những khám phá mới đă dẫn chúng ta tới việc nh́n nhận lư thuyết tiến hóa hơn là một giả thuyết” sau hơn 100 năm chống phá. Và ngày nay, Giáo Hội Công Giáo La Mă cũng không c̣n dạy thuyết sáng tạo cho các tín đồ nữa. [24]

Mặc dù vậy, các nhà biện giải VN cho TCG vẫn không chấp nhận lập trường của Giáo hội Mẹ, ngày đêm tiếp tục chống phá thuyết tiến hóa. Những bài viết của họ được đưa vào các diễn đàn công cộng trong những thời gian qua không ǵ khác hơn là thứ văn hóa phế thải, sản phẩm một thời của trận chiến đă kết thúc từ lâu. Điều rất ngạc nhiên là những chỉ trích sai lầm và đ̣i hỏi chứng minh vô lư của họ đối với thuyết tiến hóa khoa học đều có thể được áp dụng cho giả thuyết sáng tạo, nhưng họ vẫn một mực tuyệt đối tin vào giả thuyết sáng tạo, một thuyết đă bị toàn thể cộng đồng khoa học bác bỏ, chỉ c̣n là dấu vết lịch sử của thần thoại hoang đường. Như vậy, điều này đă chứng minh rằng các nhà biện giải VN cho TCG chỉ nhắm mắt hành xử theo thành kiến để cố gắng bảo vệ bằng mọi giá cho tôn giáo của họ, cho dù phải hy sinh cả chân lư, sự thật.

Nhưng bảo vệ và phục chân lư hay bảo vệ và phục vụ tôn giáo, điều nào là điều quan trọng, nên làm hơn ?

 

         


 

 

Ghi chú:

[1] Gs. Trần Chung Ngọc: Darwin Hay Thượng Đế? Tiến Hóa Hay Sáng Tạo? Nguồn: http://giaodiemonline.com/2009/02/tienhoa.htm

[2] Douglas Futuyma: Hypotheses, Facts, and the Nature of Science

[3] Muller, H. J. (1959). "One hundred years without Darwin are enough". School Science and Mathematics 59: 304–305. doi:10.1111/j.1949-8594.1959.tb08235.x. http://www.skepticfiles.org/evolut/100pcnts.htm.  Reprinted in Zetterberg, Peter (ed.) (1983-05-01). Evolution Versus Creationism: The Public Education Controversy. Phoenix AZ: ORYX Press. ISBN 0897740610.  

[5] From the National Academies, Definitions of Evolutionary Terms, Nguồn: http://nationalacademies.org/evolution/Definitions.html

§  Vetter, Herbert F. (ed.) (1982). Speak Out Against The New Right. Beacon Press. ISBN 0807004863.

§  Gould, Stephen Jay (1994-04-01). Hen's Teeth and Horse's Toes. New York: Norton. ISBN 0393017168.

[7] Trần Tiên Long: Những Thủ Đoạn Mánh Mung Chống Phá Thuyết Tiến Hóa. Nguồn: http://sachhiem.net/TTL/TranTL11.php

[8] Sir Karl Popper: The Problem of Induction, 1953

[9] Douglas J. Futuyma: Evolutionary Biology, 2nd ed., 1986, Sinauer Associates, p. 15

[10] Cavalier-Smith T (2006). Cell evolution and Earth history: stasis and revolution. Philos Trans R Soc Lond B Biol Sci 361 (1470): 969–1006. doi:10.1098/rstb.2006.1842. PMC 1578732. PMID 16754610.

[11] Harmon, New York Times, Amy (August 31, 2008). Teaching evolution to young Christian skeptics. San Francisco Chronicle. http://www.sfgate.com/cgi-bin/article.cgi?f=/c/a/2008/08/30/MNSK12HD6J.DTL. Retrieved 2009-08-29.

[12] Hartwig, W. (2007): Primate Evolution. In Campbell, C., Fuentes, A., MacKinnon, K., Panger, M. & Bearder, S.. Primates in Perspective. Oxford University Press. ISBN 978-0-19-517133-4.

[14] Darwin, C. (1871, p. 161) The Descent of Man. Amherst, New York, Prometheus Books. 

[15] American Adults Flunk Basic Science. Science Daily. March 13, 2009. http://www.sciencedaily.com/releases/2009/03/090312115133.htm.

[17] We therefore find that Professor Behe’s claim for irreducible complexity has been refuted in peer-reviewed research papers and has been rejected by the scientific community at large." Ruling, Judge John E. Jones III, Kitzmiller v. Dover Area School District

[18] "True in this latest creationist variant, advocates of so-called intelligent design ... use more slick, pseudoscientific language. They talk about things like 'irreducible complexity'" —
Shulman, Seth (2006). Undermining science: suppression and distortion in the Bush Administration. Berkeley: University of California Press. p. 13.
ISBN 0-520-24702-7. "for most members of the mainstream scientific community, ID is not a scientific theory, but a creationist pseudoscience."
David Mu (Fall 2005).
"Trojan Horse or Legitimate Science: Deconstructing the Debate over Intelligent Design". Harvard Science Review 19 (1). http://www.hcs.harvard.edu/~hsr/fall2005/mu.pdf.
Perakh M (2005 Summer).
"Why Intelligent Design Isn't Intelligent — Review of: Unintelligent Design". Cell Biol Educ. 4 (2): 121–2. doi:10.1187/cbe.05-02-0071. PMC 1103713. http://www.pubmedcentral.nih.gov/articlerender.fcgi?tool=pmcentrez&artid=1103713
Mark D. Decker. College of Biological Sciences, General Biology Program, University of Minnesota
Frequently Asked Questions About the Texas Science Textbook Adoption Controversy "The Discovery Institute and ID proponents have a number of goals that they hope to achieve using disingenuous and mendacious methods of marketing, publicity, and political persuasion. They do not practice real science because that takes too long, but mainly because this method requires that one have actual evidence and logical reasons for one's conclusions, and the ID proponents just don't have those. If they had such resources, they would use them, and not the disreputable methods they actually use."
See also
list of scientific societies explicitly rejecting intelligent design

[19] Michael Behe: Darwin's Black Box: The Biochemical Challenge to Evolution, 1996, quoted in Irreducible Complexity and Michael Behe (retrieved 8 January 2006)

[20] Bridgham JT, Carroll SM, Thornton JW (April 2006): Evolution of hormone-receptor complexity by molecular exploitation. Science 312 (5770): 97–101. Bibcode 2006Sci...312...97B. doi:10.1126/science.1123348. PMID 16601189.

[21] Index to Creationist Claims. Mark Isaak. The Talk.Origins Archive. "Irreducible complexity and complex specified information are special cases of the ‘complexity indicates design’ claim; they are also arguments from incredulity." "The argument from incredulity creates a god of the gaps."

[22] "We therefore find that Professor Behe’s claim for irreducible complexity has been refuted in peer-reviewed research papers and has been rejected by the scientific community at large." Ruling, Judge John E. Jones III, Kitzmiller v. Dover Area School District

[23] Richard Dawkins: The Improbability of God/Không thể có Thượng đế, Trần Tiên Long dịch. Nguồn: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8847&rb=0303

[24] Trần Tiên Long:  Lại Phải Trả Lời Ông Chu Tất Tiến (Về bài Lời Cuối Cho Ngài Học Gỉa TTL). Nguồn: http://giaodiemonline.com/2011/06/chutattien.htm