NHỮNG HUYỀN THOẠI VỀ CỘNG SẢN & VÔ THẦN

 

Myths About Communism & Atheism

 

 

Jim Walker

 

 

 

Vài Lời Nói Đầu: Giữa thế kỷ 18, nhà Đại Văn Hào Pháp Voltaire đă nhận định: “vô thần là thói xấu của một số ít những người thông minh” (Atheism is the vice of a few intelligent people) để đối chiếu với  số đông những người “hữu thần” kém thông minh tin nhảm tin nhí vào một thần trong thời đó ở Âu Châu, tuyệt đại đa số là tín đồ Ki-Tô Giáo.  Nhưng có vẻ như đám người kém thông minh này, không chỉ giới hạn ở Âu Châu, không tiến bộ được chút nào trải qua đă vài thế kỷ, cho nên chúng ta vẫn thấy họ dùng những từ như “Cộng sản vô thần” tràn ngập trên Internet, hàm ư “vô thần” là một cái ǵ xấu xa, v́ không chịu tin nhảm tin nhí vào vào thần của họ.  Thật là tội nghiệp, họ có biết đâu “vô thần” là biểu hiện của tự hào, của danh dự, của sự tiến bộ trí thức, và “vô thần” đă có trong suốt gịng lịch sử của nhân loại, trong khi Cộng Sản mới chỉ thành h́nh vào đầu thế kỷ 20.

 Bất cứ người nào có đôi chút kiến thức cũng phải hiểu rằng: CS là một hệ thống chính trị xă hội – kinh tế (Communism is a socio-economic political system) trong khi Vô Thần là một lập trường đối với các tôn giáo (thần giáo), đặc biệt là Ki Tô Giáo (Atheism is a position taken in respect to religion, especially Western religion.), và Vô Thần đă có từ trên 2000 năm nay, trong khi Cộng sản mới chỉ ra đời cách đây trên 100 năm.

 Tại sao những người chống Cộng lại mù quáng và thiếu hiểu biết đến độ ngày nay mà vẫn dùng cụm từ “Cộng sản vô thần” để lên án Cộng sản?  V́ họ đă bị thuốc phiện của những tôn giáo độc thần làm tê liệt đầu óc, khiến cho họ suốt đời phải bám víu vào một vị thần tưởng tượng do tôn giáo đó bày đặt ra, như  bám víu vào một cặp nạng để lê lết trên trường đời.  Họ được dạy vô thần là chống thần của họ, cho nên với bất cứ giá nào, họ phải chống những người “vô thần” để duy tŕ cặp nạng của họ.  Thật là tội nghiệp.

 Kết hợp Vô Thần với Cộng Sản là một thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc xảo quyệt mà Ki Tô Giáo nói chung, đặc biệt là Ca-tô Rô-ma Giáo, dùng để gây hận thù tôn giáo, mê hoặc đám tín đồ thấp kém mê tín và cuồng tín, trong sách lược chống Cộng trước đây.  Tại sao Ki Tô Giáo lại chống Cộng một cách điên cuồng bất kể thủ đoạn như vậy?  Thật là dễ hiểu, v́ lư thuyết của Marx đă vạch trần bộ mặt thật của Ki Tô Giáo, kết quả là đưa Ki Tô Giáo vào con đường suy thoái không có cách nào cứu văn.  Hiện tượng này thật là rơ rệt, không những chỉ ở Âu Châu, cái nôi của Ki Tô Giáo, mà c̣n ở khắp nơi trên thế giới, kể cả Bắc Mỹ.  Học giả Công giáo Joseph L. Daleiden đă viết trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng (The Final Superstition, Prometheus Books, New York,  1994): “Căn nguyên sự thù ghét Cộng Sản của giáo hội Ca-tô là v́ giáo hội ư thức được rằng Cộng Sản, về ảnh hưởng, là một địch thủ tôn giáo.” [The root of the (Catholic) Church’s antipathy toward Communism is its realization that Communism is, in effect, a rival religion].

 

Ca-tô Rô-magiáo đă dùng mọi thủ đoạn, khai thác sự cuồng tín và mê muội của tín đồ, gây căm thù trong đầu óc họ đối với Cộng sản mà Ki Tô giáo gán cho hai chữ Vô Thần, hàm ư Cộng sản chống Thần của Ki Tô Giáo. Cùng một sách lược, trước sự phát triển của Phật Giáo ở Tây phương, giáo hoàng John Paul II đă viết cuốn Bước Qua ngưỡng Cửa Hi Vọng trong đó ông ta phê b́nh: “Phật giáo đại để là một hệ thống “vô thần”” (Buddhism is in large measure an “atheistic” system). Câu viết tối tăm lắt léo  này chỉ có mục đích đồng nhất hóa “vô thần” của Cộng Sản với “vô thần” của Phật Giáo để giữ đám tín đồ đừng đi theo Phật Giáo

 V́ không hiểu rơ chủ trương vô thần của Marx cũng như bản chất của vô thần cho nên ngày nay vẫn c̣n có những người cuồng tín, kể cả những người gọi là trí thức Ca-tô hay Tin Lành, và cả một số trí thức Phật Giáo thiếu trí tuệ, vẫn tiếp tục kết hợp Cộng sản với Vô Thần, làm như Vô Thần là một trọng tội xấu xa cần phải diệt trừ.  Họ không đủ kiến thức để hiểu rằng, khi họ kết hợp Cộng Sản với Vô Thần là họ đang thực sự tôn vinh Cộng Sản. 

 Trên thực tế, Vô Thần là kết quả tiến bộ trí thức của con người, như Frank E. Tate đă tuyên bố như sau:

  “Suốt cuộc đời tôi, tôi đă tiến bộ từ một người sùng tín đến một người theo thuyết “bất khả tri” và bây giờ là một người vô thần.   Tôi dùng từ “tiến bộ” v́ tôi tin rằng đó thực sự là một sự tiến bộ, tiến từ sự chấp nhận mù quáng vào một huyền thoại phi lư đă lỗi thời đến sự nghi ngờ và sau cùng đến sự từ bỏ và không c̣n tin nữa.

Chính cái huyền thoại đó – cuốn Thánh kinh Do Thái – Ki Tô – là một cuốn ghi chép kinh hoàng về những cuộc đổ máu, dâm dật, và cuồng tín không đếm xỉa ǵ đến đời sống và sự an sinh của những người nào không bày  tỏ niềm tin mù quáng của ḿnh vào những giới luật được tŕnh bày qua những lời lẽ mâu thuẫn và không thể nào xảy ra được”

   (During my lifetime I have progressed from being a “believer,” to being an agnostic and now an atheist.  I use the word “progress” because I believe it to be true progress to go from blind acceptance of an outdated illogical mythology to doubt and finally to denial and disbelief...

   The myth itself – the Judeo-Christian Bible – is a shocking account of bloodshed, lust, and bigoted disregard for the lives and well-being of all peoples who do not profess a blind belief in the precepts presented in such impossible and contradictory terms.)

 John Cornwell, một tín đồ Ca-tô Giáo và cũng là một chuyên gia về Ca-tô Rô-maGiáo và Vatican, tác giả 2 cuốn sách nổi tiếng về Vatican: A Thief in the NightHitler’s Pope, đă viết một tác phẩm khác về Ca-tô Rô-maGiáo nhan đề Từ Bỏ Đức Tin: Giáo Hoàng, Giáo Dân, và Số Phận của Ca-tô Giáo (Breaking Faith: The Pope, The People, and The Fate of Catholicism), xuất bản  năm 2001,  trong đó chương đầu viết về Một Thời Đại Đen Tối Của Ca-tô Giáo (A Catholic Dark Age).

 

Trong chương này, tác giả John Cornwell đưa ra t́nh trạng suy thoái trầm trọng của Ca-tô giáo ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Anh, Mỹ, và Pháp.  Số tín đồ mang con đi làm lễ rửa tội giảm sút, v́ ngày nay người ta nhận thức được rằng chẳng làm ǵ có tội ở đâu mà phải đi rửa; đám cưới tổ chức không cần đến  linh mục,  v́ hôn phối có thể hợp thức hóa ngoài nhà thờ và bí tích hôn phối đă mất hết ư nghĩa; giới trẻ không buồn đến nhà thờ, v́ chẳng thấy ǵ hấp dẫn trong những lời giảng đi ngược thời gian của các linh mục; số từ bỏ đức tin gia tăng, v́ người ta không c̣n chịu chấp nhận một đức tin mù quáng; từ 1958 đến nay, số vào nghề linh mục giảm đi 2/3 v..v..  T́nh trạng ở Châu Âu, trước đây là cái nôi của Công giáo,  thật là thê thảm. 

 Ở Tây Âu (Western Europe), từ 30 đến 50% các giáo xứ không có linh mục.  Ở Ư, 90% theo Công giáo nhưng chỉ có 25% đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, giảm 10% kể từ đầu thập niên 1980, số người vào học trường Ḍng giảm một nửa.  Ở Ái Nhĩ Lan (Ireland), xứ Công giáo, số người cảm thấy ḿnh được ơn kêu gọi tụt xuống từ 750 năm 1970 c̣n 91 năm 1999, số linh mục được tấn phong từ 259 xuống 43 trong cùng thời gian.  Trong một hội nghị đặc biệt vào năm 1999, các giám mục Âu Châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu Châu đă quyết định sống “như là Thiên Chúa không hề hiện hữu” (At a special synod in 1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire continent had decided to live “as though God did not exist”.)   Ở Nam Mỹ, t́nh trạng cũng không khá hơn.  7000 tín đồ mới có một linh mục.  Chỉ có 15% giáo dân đi xem lễ ngày chủ nhật.  Theo một hội nghị quốc gia của các giám mục Ba Tây th́ mỗi năm có khoảng  sáu trăm ngàn tín đồ bỏ đạo (according to the National Conference of Brazilian Bishops, some 600000 Catholics leave the Church each year.)  Và chính Giáo hoàng đương nhiệm, Benedict XVI cũng đă nhiều lần thú nhận: “Âu Châu ngày nay sống như là không biết đến Gót và cũng chẳng cần đến sự cứu rỗi của Giê-su”

  Âu Châu và nhiều nơi khác trên thế giới đă trở thành “vô thần”.  Cho nên, ngày nay từ “Cộng sản vô thần” chẳng nói lên được điều ǵ ngoài phản ánh sự đần độn của đám người cuồng tín, không theo kịp đà tiến hóa và sự tiến bộ trí thức của nhân loại.

 Sau đây tôi xin dịch bài “Những Huyền Thoại Về Cộng Sản & Vô Thần” của Jim Walker trên trang nhà http://www.nobeliefs.com/facts.htm: Tôi không hi vọng mở mắt được những người chống Cộng cực đoan từ bỏ dùng cụm từ “Cộng sản vô thần” mà chỉ muốn chứng tỏ là họ càng tiếp tục dùng cụm từ trên th́ càng chứng tỏ họ là những người vô tŕnh độ, không đáng để chúng ta quan tâm.

 Bài cần đọc thêm : http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN11.php, về “Vô Thần và Hữu Thần”. [Trần Chung Ngọc]

 

 

*   *   *

 

 

NHỮNG HUYỀN THOẠI VỀ CỘNG SẢN & VÔ THẦN

[Myths About Communism & Atheism]

By Jim Walker

 

Trong thời đại của Đức Quốc Xă Nazi cùng với những tín đồ Ca-tô Đức trong những thập niên 1920 và 30, và cho đến thập niên 1950, cùng với sự chống Cộng cuồng loạn của Mỹ, những kẻ cuồng tín cực hữu đă cấy vào đầu dân chúng ư tưởng Cộng sản có nghĩa là vô tôn giáo và chủ trương vô thần.  Ngày nay, cái huyền thoại này vẫn c̣n tồn tại trong đầu óc của những chính trị gia và nhà tôn giáo bảo thủ.  Tuy nhiên, trong bản Cương Lĩnh của Đảng Cộng sản và trong Hiến Pháp của Liên Bang Sô Viết, không hề nói đến vô thần bất cứ ở chỗ nào.  Liên bang Sô Viết cũng không tiêu diệt tôn giáo.  Trái lại, không có chỗ nào trong chủ nghĩa Cộng sản cấm không cho phép tôn giáo thực hành.  Cần phải để ư đến sự kiện là Bản Cương Lĩnh của Đảng Cộng Sản so sánh Ki Tô Giáo với chủ nghĩa xă hội [Noteworthy appears the fact that the Manifesto of the Communist Party compares Christianity with socialism] như sau:

Không có ǵ dễ dàng hơn là chủ nghĩa tu khổ hạnh của Ki Tô Giáo có một màu sắc xă hội.  Có phải là Ki Tô Giáo đă phủ nhận tài sản cá nhân, phủ nhận hôn phối, phủ nhận quốc gia? Có phải là thay v́ đó Ki Tô Giáo đă rao giảng về sự nghèo khổ và từ thiện, chủ nghĩa độc thân và hành xác, đời sống trong tu viện và Giáo hội mẹ. Chủ nghĩa xă hội của Ki Tô Giáo không ǵ khác là “nước thánh” mà các linh mục hiến dâng cho những trái tim đau khổ của giới quư tộc.

Điều khoản 34 trong bản Hiến Pháp năm 1977 của Liên Bang Sô Viết Xă Hội Cộng Ḥa viết:

Công dân của Liên Bang Sô Viết th́ b́nh đẳng trước pháp luật, bất kể sự khác biệt về nguồn gốc, t́nh trạng xă hội và tư hữu, giới tính, tŕnh độ học vấn, ngôn ngữ, thái độ đối với tôn giáo, nghề nghiệp, nơi ở, và các t́nh trạng như địa vị, thân thế v…v…

Chủ nghĩa Cộng sản là một hệ thống niềm tín (beliefs system) về kinh tế và chính trị xă hội, đặt căn bản trên sở hữu cộng đồng thay v́ tư nhân.  Chủ nghĩa này không nói bất cứ điều ǵ để đẩy mạnh chủ trương vô thần hay diệt trừ tôn giáo.

Tuy chắc chắn đă có những sự bạo hành đối với nhà thờ Nga Sô vào đầu thế kỷ 20, quyền lực của Cộng sản làm như vậy là v́ những quan ngại chính trị, chứ không phải v́ những lư do tôn giáo hay vô thần.  Những người Cộng sản muốn kiểm soát tất cả những nguồn tài nguyên của quốc gia và trong những nguồn tài nguyên này th́ gồm có tôn giáo cũng như họ đă làm đối với những vấn đề như kỹ nghệ và nông nghiệp.  Đó là một trong những lư do mà Stalin đă cho Giáo hội Chính Thống Nga sống lại và tồn tại cho đến ngày nay.

Có lẽ lư do mà người ta hay nói đến nhất để kết nối chủ nghĩa vô thần với chủ nghĩa Cộng sản là từ lời phát biểu của Karl Marx:

Tôn giáo là tiếng thở dài  của những tạo vật bị đàn áp, trái tim của một thế giới vô tâm, cũng như nó là tâm linh của một t́nh trạng vô tâm linh.  Đó là thuốc phiện của con người.

Lời tuyên bố này không bắt nguồn từ triết lư Cộng sản của Marx, mà có vẻ là ông ta muốn chỉ trích triết lư về Quyền của Hegel [Hegel’s Philosophy of Right].  Lời tuyên bố trên cũng không biểu thị chủ nghĩa vô thần hay về không có mặt của Gót, mà chỉ là nhận định về tôn giáo.  Chúng ta nên để ư là có nhiều người tin Gót nhưng từ chối tôn giáo và đồng ư với lời tuyên bố của Marx. Thí dụ, những cá nhân Tin Lành thuần túy cũng tin đúng như Marx.

Marx đă giải thích rơ về nhận định trên của ông:

Do đó, Nhà Nước có thể tự giải phóng (emancipated itself) ra khỏi tôn giáo ngay cả khi tuyệt đại đa số người dân vẫn c̣n theo tôn giáo.  Và tuyệt đại đa số người dân vẫn thực hành tôn giáo trong đời tư..  Sự giải phóng của Nhà Nước ra khỏi tôn giáo không phải là sự giải phóng của con người ra khỏi tôn giáo. [--Karl Marx (Bruno Bauer, The Jewish Question, Braunschweig, 1843)]

Nghe chẳng có vẻ ǵ là vô thần cả, hoàn toàn không có.

Mặt khác, người ta giải thích làm sao cái gọi là “Cộng sản vô thần” khi mà, trong các thập niên 1970, 1980,  các quốc gia Cộng sản và xă hội khác, đặc biệt những quốc gia ở Nam Mỹ, lại theo Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca-tô Giáo?

Chúng ta nên để ư là, hầu hết mọi cuốn sách kết hợp Cộng sản với vô thần là từ các tổ chức tôn giáo hay các tác giả nghiện đạo (religious authors), có khuynh hướng rơ rệt là chống một hệ thống tín ngưỡng cạnh tranh .  Thật vậy, Chủ nghĩa Cộng sản, ít ra là Cộng sản Nga, đă là mối đe dọa cho một số các hệ phái Ki Tô.  Nhưng sự chống đối này cũng chẳng tệ hại ǵ hơn là lịch sử  Ca-tô chống Tin Lành, của Tin Lành chống Ca-tô, của Hồi giáo chống Ki Tô Giáo hay Ki Tô Giáo chống Hồi giáo.  Những tín đồ Ki Tô Giáo luôn luôn coi những kẻ thù tôn giáo của họ là tuyên truyền, lẩn tránh đối thoại, gán cho những nhăn hiệu [và những tín đồ này chính họ cũng luôn luôn thực hành như vậy], và điều này cũng áp dụng cho những luận cứ chống Cộng, v́ Cộng sản cũng là một tôn giáo, thờ phụng một Gót của Nhà Nước thay v́ một Gót độc tài, chỉ biết ra lệnh.

Ai có thể giải thích cụm từ “Cộng sản vô thần”  mà không bao giờ nhắc tới chủ nghĩa vô thần trong đó là ǵ, từ đâu tới?  Bất hạnh thay nhiều người vô thần cũng rơi vào cái mồi của cái huyền thoại này.  Nếu Cộng sản Bôn-Xê-vít tước đi đặc quyền của các nhà thờ, chỉ bằng vào điều này th́ có dính dáng ǵ đến chủ nghĩa vô thần?  Nếu một cơn băo lốc thổi qua một thị trấn Ki Tô Giáo và phá hủy tất cả các nhà thờ trong đó, chúng ta có quy trách đó là một cơn băo lốc … vô thần không?  Thật vậy, nếu Cộng sản biện minh cho tín ngưỡng của họ bằng chủ nghĩa vô thần, ở đâu mà chúng ta có thể t́n thấy những lư lẽ của họ?  Thí dụ, trong những cuộc thập tự chinh, tàn sát, ṭa án xử dị giáo, chúng ta có thể thấy một sự thừa thăi những lư luận thần học của các nhà thần học và tín đồ để biện minh cho những sự tàn ác trên.  Nhưng đâu là những lư luận vô thần mà các bậc lănh đạo Cộng sản dùng?  Chúng ta có thể kiếm ở đâu sự luận b́nh của họ về vô thần?  Nếu Cộng sản đúng như là những lời mà chúng ta lên án họ th́ chúng ta phải kiếm được không thiếu ǵ những tài liệu chứng minh.  Chúng ta t́m được chúng ở đâu?  Tuy rằng tôi chưa đọc toàn bộ những tác phẩm của Marx và Stalin, tôi đă cố gắng và không thành công kiếm ra bất cứ chỗ nào mà họ thú nhận chủ nghĩa vô thần của họ, cũng như chẳng thấy đâu những điều họ làm sáng tỏ về triết lư của chủ nghĩa vô thần.  Thật là kỳ lạ nếu chúng ta xét đến tất cả những điều lạc dẫn để kích thích tín đồ đến buồn nôn (ad nauseam) về chủ đề “Cộng sản vô thần”.  Hăy tưởng tượng là một tôn giáo hữu thần mà chẳng bao giờ nói đến Gót của tôn giáo đó, chúng ta có thể thấy sự vô nghĩa của cụm từ “Cộng sản vô thần”.  Vậy th́ bất cứ khi nào mà có một tín đồ Ki Tô Giáo nào đó muốn bảo vệ những sự tàn ác của tôn giáo họ bằng cách so sánh với những sự tàn ác của “Cộng sản vô thần”, hăy đơn giản hỏi họ về những biện minh vô thần của Cộng sản.  Tôi cho rằng họ chẳng biết là họ đă nói những ǵ.

Tôi cho các người một thách đố.  Chắc chắn là nhà “đại vô thần Karl Marx” phải có những quan niệm về vô thần ở đâu đó, vậy các người hăy t́m ra một bài báo hay một bài tiểu luận mà Karl Marx giải thích hay viết về chủ nghĩa vô thần, hoặc là một triết lư, hoặc là một hệ thống tín ngưỡng.  Tốt hơn nữa là hăy kiếm ra ở đâu mà ông ta thú nhận chủ nghĩa vô thần của ông ta, dù chỉ trong một câu chữ. [Better yet, find where he admits his atheism even in one sentence.]

 

Những sự kiện đáng quan tâm:

- Karl Marx xuất thân từ một gia đ́nh Do Thái, nhưng cha ông ta theo Ki Tô Giáo và toàn thể gia đ́nh đă rửa tội theo Tin Lành  [Karl Marx came from Jewish parents but his father embraced Christianity and the entire family got baptized as Protestants.]

- Stalin cũng sinh ra từ một gia đ́nh có đạo.  Được nuôi dưỡng bởi người mẹ rất sùng đạo, ông ta đă theo học trường của Giáo xứ, và sau đó vào học trường Ḍng Thần học.  Trong thời gian được huấn luyện về thần học, ông ta bắt đầu có những tư tưởng về Cộng sản.  Hầu hết tính khí cũng như tính không khoan nhượng của ông ta th́ phù hợp với những giáo lư mà tôn giáo dạy trong thời đại của ông ta. [Much of his temper and intolerance matches that of the religious teachings of his day.]